Luận về Địa Không, Địa Kiếp- Đặng Xuân Xuyến
Phố núi và bạn bè... Chút gì để nhớ!
Địa Không, Địa Kiếp là 2 sao ác tinh hạng nặng trong số các tinh đẩu của khoa Tử Vi. Khi coi số, người xem rất sợ gặp phải 2 tên đồ tể hạng nặng này, nhất là khi chúng hãm địa, bởi sức phá hoại của Không, Kiếp thật tàn bạo, khốc liệt, không những ảnh hưởng trực tiếp từ tính chất côn đồ của sao tới cung, Mệnh (Thân) mà còn phá hỏng các cách đẹp khác của các tinh đẩu. Sức ảnh hưởng của 2 sát tinh này mạnh ngang ngửa với chính tinh đắc địa, thậm chí còn phá hỏng cả cách đẹp của những chính tinh đắc địa. Đây thật sự là 2 sao tàn bạo, gieo rắc những đau thương, bất hạnh, những nghiệp chướng oan nghiệt mà con người khó cưỡng chế được.
Muốn luận giải chuẩn khi coi số, người coi số phải hiểu rõ về bản chất của Địa Không, Địa Kiếp, mới hy vọng có được một phần nhỏ hữu ích cho việc cải số. Nếu làm đựơc như thế cũng đã là mãn nguyện rồi!
I. ĐẠI CƯƠNG VỀ ĐỊA KHÔNG, ĐỊA KIẾP:
1.1 Hiệu lực của
Địa Không, Địa Kiếp:
Địa Không, Địa Kiếp là hai sát tinh nặng nhất,
mạnh nhất trong các sao xấu. Tuy chỉ là phụ tinh nhưng ảnh hưởng của hai sao này
mạnh ngang ngửa với chính tinh đắc địa. Chỉ riêng một trong hai sao cũng đủ hóa
giải hầu hết hiệu lực của sao tốt nhất là Tử Vi, thậm chí có thể làm cho Tử Phủ
trở thành phá cách.
Ở những cung đắc địa thì Không Kiếp bén nhậy,
can đảm, thành công, giầu có. Ở các cung hãm địa thì Không Kiếp trở nên ích kỷ,
gian lận, lưu manh và trộm cướp bất lương, nói tóm lại, đó là tính nết của
phường côn đồ.
Do bản chất là Sát Tinh nên dù Không Kiếp có đóng ở
nơi đắc địa (Tỵ, Hợi, Dần, Thân) tuy có góp phần làm gia tăng tài danh một cách
nhanh chóng nhưng cái may thường đi liền với cái rủi. Sự nguy hiểm bao giờ cũng
còn tiềm phục và sẵn sàng tác họa, nếu gặp hung tinh khác.
Vị trí
tốt nhất của Không, Kiếp là Tỵ. Tại đây, chủ sự hoạnh phát mau chóng và bất ngờ
về quan, tài, vận hội... bộc phát chói lọi được một thời gian.
Tại
Hợi: Không Kiếp cũng có nghĩa như ở Tỵ nhưng cường độ kém hơn nhưng cũng nhờ đó
mà nếu có tai họa thì sự suy trầm, xuống dốc sẽ không nhanh chóng như khi ở Tỵ.
Tại Tỵ và Hợi, Kiếp Không bao giờ cũng đồng cung cho nên hệ số gia
tăng gấp bội về lợi cũng như về bất lợi.
Còn ở Dần Thân, Kiếp -
Không độc thủ và xung chiếu nên sự phát đạt không mạnh bằng ở Tỵ hay Hợi. Tuy
vậy, Không Kiếp ở Dần, Thân dù có nhiều Cát Tinh cũng là một cuộc đời chìm nổi,
lên xuống thất thường. Không, Kiếp ở Dần tốt hơn ở Thân.
Kiếp, Không
đắc địa gặp Tuần, Triệt án ngữ có nghĩa như hãm địa và những luận đoán phải đảo
ngược. Trái lại, Kiếp, Không hãm địa gặp Tuần, Triệt án ngữ sẽ chế giảm hay
triệt tiêu sức phá hoại của sát tinh này nhưng không hẳn biến thành tốt đẹp.
1.2 Phạm vi ảnh hưởng của Địa Không, Địa Kiếp:
Vốn là
sao Hỏa nên sức phá hoại của Kiếp, Không hãm địa rất mạnh, nhanh chóng và bất
ngờ. Tai họa càng gia tăng cả về số lượng lẫn cường độ, cả cho mình lẫn cho
người thân, thậm chí còn ảnh hưởng đến toàn thể cuộc đời, nếu gặp thêm hung sát
tinh khác đi cùng hoặc không có nhiều sao cứu giải đủ mạnh.
Sự hiện
diện của Không, Kiếp ở các cung quan yếu như Phúc, Mệnh, Thân (nếu hãm địa) đánh
dấu sự xuống dốc mau chóng và những tai hoạ dồn dập, bất khả kháng. Gặp nó, con
người hầu như bị tràn ngập bởi các yếu tố bất khả cưỡng, không còn chủ động được
trên nhiều tình huống. Nếu thiếu nhiều sao cứu giải mạnh mẽ, Kiếp Không báo hiệu
cho một cái chết nhanh chóng, bất ngờ và tàn bạo. Ngay ở những vị trí đắc địa
(Tỵ, Hợi, Dần, Thân), Không Kiếp vẫn tiềm ẩn sức phá hoại không nhỏ, cuộc đời
vẫn gặp những đắng cay, bất hạnh như thường.
Ngoài ra, càng về già,
hai sao Kiếp, Không càng tác họa mãnh liệt hơn các hung sát tinh khác.
Không Kiếp được ví như một nghiệp chướng bám vào con người, tượng
trưng cho những trường hợp bất khả kháng, khó chế ngự. Đây thật sự là 2 sao tai
họa cho con người.
II. ĐỊA KHÔNG, ĐỊA KIẾP VỚI CÁC SAO KHÁC:
2.1 Những sao
chế giải sự hung hiểm của Không, Kiếp hãm địa:
Khi ở hãm địa, hai
sao này tác họa rất mạnh, dù có gặp sao chế giải thì hung họa vẫn tiềm tàng, chỉ
giảm bớt được ít nhiều chứ không mất hẳn. Khi gặp Không, Kiếp hãm địa, sự tốt
đẹp của cát tinh bị Không, Kiếp làm giảm đi nhiều hơn là cát tinh làm mất sự
hung họa của Kiếp, Không.
Về các chính tinh, chỉ có Tử Vi và Thiên
Phủ miếu và vượng địa mới có nhiều hiệu lực đối với Kiếp, Không. Nhưng cũng có
quan điểm cho rằng bộ Sát, Phá, Liêm, Tham là thầy của lũ sát tinh nên nếu Sát,
Phá, Liêm, Tham đắc địa, nhất là Phá Quân đắc địa sẽ khắc chế và thuần phục lũ
sát tinh giảm tác oai tác quái.
Theo quan điểm của cụ Thiên Lương
thì: “Không, Kiếp là ác sát không bao giờ tử tế với ai, chỉ trừ có 1 Phá Quân là
vị chỉ huy tối cao trực tiếp bản tính hung bạo chỉ chuyên phá hoại. Không, Kiếp
vốn là hạng dao búa hợp tình hợp cảnh nên chịu phục tùng hùa nhau gây sự chẳng
lành. Trường hợp Phá Quân đắc địa hay Không, Kiếp ở Dần, Thân, Tỵ, Hợi chỉ nhất
thời đưa nhau lên, sau vẫn tàn tạ như mọi vị trí khác.”
“Xin thưa Tử
Phủ Vũ Tướng đừng hòng lấn át Lục Sát tinh, dẫu là Tử, Phủ đắc địa gặp họ cũng
đắc địa càng có sự tranh chấp quyết liệt. Nếu hoàn cảnh Tử, Phủ hãm, họ qua mặt
như vào chỗ không người ngăn cản. Còn nói khi Cơ, Nguyệt, Đồng, Lương gặp họ hầu
như hoàn toàn bị chi phối tùy theo bộ sao Lục Sát và vị trí đắc hay hãm địa của
họ”.
Về các phụ tinh có: Tuần, Triệt, Thiên Giải và Hóa Khoa là 4
sao tương đối mạnh. Những sao giải khác không đủ sức chế ngự Kiếp, Không hãm
địa.
2.2 Những sao làm gia tăng ác tính của Không, Kiếp hãm địa:
Đi với võ tinh hãm địa như Sát, Phá, Liêm, Tham thì Kiếp, Không càng
tác họa mạnh mẽ cả về cường độ lẫn phương diện.
Những sát tinh hãm
địa khác như Kình, Đà, Linh, Hỏa hay Tả, Hữu cũng góp phần làm gia tăng hiểm họa
do Kiếp Không hãm địa gây ra.
Những hình tinh, bại tinh... cũng góp
phần làm gia tăng tác họa hung hiểm của Không, Kiếp hãm địa.
2.3 Địa
Không, Địa Kiếp và các sao khác:
Nhìn chung khi Địa Không, Địa Kiếp
kết hợp với sao khác để tạo thành bộ, thành cách thì phần nhiều là gây tai họa
cho cuộc sống con người, nhất là khi Không, Kiếp hãm địa.
Sách Tử Vi
liệt kê một số trường hợp sau:
- Kiếp, Không đắc địa gặp Tướng, Mã,
Khoa thủ Mệnh: Là người tài giỏi, lập được sự nghiệp lừng lẫy trong cảnh loạn
ly.
- Kiếp, Không đắc địa với phi thường cách (Tử Phủ Vũ Tướng đắc
địa, Sát Phá Liêm Tham đắc địa, được sự hội tụ của cát tinh đắc địa như Tả, Hữu,
Khôi, Việt, Xương, Khúc, Long, Phượng, Đào, Hồng, Khoa, Quyền, Lộc và của sát
tinh đắc địa như Kình, Đà, Không, Kiếp, Hình, Hổ): Là cách nguyên thủ, đế vương,
hội đủ tài đức và vận hội, có cả lương thần và hảo tướng trợ giúp, xây dựng chế
độ, lưu danh tiếng lừng lẫy cho hậu thế.
- Không, Kiếp ở Dần Thân
gặp Tử Phủ tất làm hại Tử Phù.
- Kiếp Không Tử Phủ cùng đắc địa: Gặp
nhiều bước thăng trầm trong công danh, sự nghiệp, tài lộc. Nếu Tử Phủ bị Tuần,
Triệt thì mối hung họa hiểm nghèo, khó tránh.
- Kiếp Không với Kình,
Đà, Hỏa, Linh: Nếu cùng đắc địa thì phú quý được một thời. Nếu cùng hãm địa thì
rất nguy hiểm tính mạng, sự nghiệp, tài danh, suốt đời gặp nhiều chuyện đau
lòng. Dù đắc địa hay hãm địa, cả trai lẫn gái đều khắc vợ, sát phu.
- Không, Kiếp, Đào, Hồng: Gặp nhiều nghiệp chướng về ái tình, đau
khổ điêu đứng trong tình duyên, phải cưới xin nhiều lần. Riêng phụ nữ, thì bị
tai nạn trinh tiết (bị dụ dỗ, lường gạt, mất trinh, thất tiết, hoặc có thể bị
hãm hiếp). Người có bộ sao này còn bị yểu mạng, hay mắc bệnh phong tình, phái nữ
thì đa phu, hồng nhan bạc mệnh có thể là gái giang hồ, nếu chưa chồng thì là
người rất lang chạ.
- Không, Kiếp ngộ Thiên Tướng thì phải bị thần
phục, sự phá hoại giảm đi nhiều. Tuy nhiên, nếu Thiên Tướng ở Mão, Dậu thì rất
cần sao Thiên Tài đồng cung, nếu không Thiên Tướng này cũng chỉ là Tướng quèn
không cản nổi Không, Kiếp.
- Không Kiếp ngộ Thất Sát, Phá Quân miếu,
vượng lại có thêm Tả Hữu thì uy dũng, quyền biến, sai khiến được người khác.
Nhưng bản chất vẫn là bạo phát, bạo tàn.
- Không, Kiếp đứng với Hóa
Quyền là người trắc trở công danh.
- Không Kiếp đứng cùng Tả Hữu ở
Mệnh, là người tâm ý thích lừa gạt.
- Kiếp, Cơ (hay Hỏa Tinh): Bị
hỏa tai như cháy nhà, bỏng lửa.
- Kiếp, Tham đồng cung: Bị thủy tai
(chết đuối, bị giết dưới nước), nếu không cũng chật vật lang thang độ nhật, dễ
sa vào đường tù tội.
- Không (Kiếp), Binh, Hình, Kỵ: Gian phi, trộm
cướp, du đãng, côn đồ theo nghĩa toàn diện (ăn cắp, khảo của, hiếp dâm, giết
người).
- Kiếp, Không, Tử, Tham: Cách tu sĩ nhưng vì ảnh hưởng của
Kiếp, Không nên có thể kẻ tu hành này có dịp phá giới, trở lại trần hoàn.
- Kiếp, Phù, Khốc, Khách, Cự, Nhật: Biểu hiện cho tai họa, tang khó,
đau buồn liên tiếp và chung thân bất hạnh.
III. Ý NGHĨA CỦA KHÔNG, KIẾP Ở CÁC CUNG:
Hầu hết vị trí
của Kiếp, Không tại các cung đều có ý nghĩa bất lợi, xấu xa và gây tai họa nặng
nề. Sách Tử Vi liệt kê ảnh hưởng của Không, Kiếp tới cuộc đời của đương số trên
12 cung như sau:
BÀO: Không có anh chị em hoặc anh chị em ly tán;
Anh chị em rặt một lũ côn đồ, đĩ điếm; Không nhờ vả được anh chị em mà còn phải
bị liên lụy vì họ (vì Kiếp, Không bấy giờ giáp Mệnh).
MẪU: Cha hoặc
mẹ mất sớm, chết thảm hoặc bị hình tù, ly cách; Không nhờ vả được cha mẹ mà có
khi phải gánh nợ di truyền của cha mẹ để lại.
PHỐI: Sát phu, sát thê
hoặc góa bụa bất ngờ; có thể không có gia đình, nếu có gia đình thì hay phải xa
cách lâu dài vì tai nạn xảy ra cho 1 trong 2 người; Phải 2, 3 lần lập gia đình,
lần nào cũng nhanh chóng.
Cung Phu có Hồng Loan gặp Địa Kiếp, nếu
Mệnh tốt thì sống bên nhau suốt đời, nếu Mệnh xấu thì chỉ sống với nhau được
khoảng mười năm thì nhẹ là phải chia ly, nặng thì sinh ly tử biệt.
TỬ: Không con, hiếm muộn, ít con hoặc phải ở xa con cái; Sát con rất
nhiều hoặc con du đãng, đĩ điếm không nhờ vả được mà còn phải bị di lụy; Con cái
phá sản nghiệp của cha mẹ.
TÀI: Nếu đắc địa thì hoạnh phát nhanh
chóng một thời nhưng về sau phá sản cũng rất nhanh. Thường thường kiếm tiền bằng
những phương cách táo bạo (buôn lậu, ăn cướp, sang đoạt) và ám muội (đầu cơ,
tích trữ, buôn bán đồ quốc cấm). Nếu hãm địa là kẻ vô sản, bần nông.
DI: Bị chết xa nhà và chết thảm và thường chết nhanh chóng, đột tử;
Bị kẻ thù hãm hại (ám sát, phục kích)...
NÔ: Tôi tớ phản chủ, hại
chủ, giết chủ; Bạn bè xấu, tham lận, lường gạt; Nhân tình ám hại, bêu xấu, bòn
của..
QUAN: Công danh thấp kém, làm ăn rất chật vật; Bị khinh ghét,
dèm pha, không thăng tiến; Bị mất chức ít ra một lần nếu đắc địa, có bộc phát
được một thời nhưng sau cũng tàn lụi hoặc phải lên voi xuống chó.
ĐIỀN: Nếu đắc địa, có điền sản một dạo nhưng phải mua đi bán lại
nhiều lần, nếu hãm địa là người vô sản, bị sang đoạt, bị phá sản, bị tai họa về
điền sản (cháy nhà, nhà sập... ) hoặc sang đoạt, tạo điền sản bằng phương tiện
táo bạo, ám muội.
PHÚC: Trừ phi đắc địa thì được hưởng lộc một thời,
còn Kiếp, Không hãm địa chủ sự bất hạnh lớn về nhiều phương diện: Dòng họ sa
sút, lụn bại, vô lại, sự nghiệp tan tành, tuổi thọ bị chiết giảm, đau ốm triền
miên vì bệnh nan y.
HẠN: Nếu đắc địa, sẽ bộc phát tài danh mau lẹ
nhưng phải lâm bệnh nặng về phổi, mụn nhọt hoặc phải đi xa. Nếu hãm địa, rất
nhiều tai nguy về mọi mặt: Bị bệnh nặng về vật chất và tinh thần (lo buồn); Bị
mất chức, đổi chỗ vì kỷ luật; Bị hao tài, mắc lừa, mất của, thất tình; bị kiện
cáo; Bị chết nếu gốc nhị Hạn xấu.
IV: NHỮNG CÂU PHÚ VỀ ĐỊA KHÔNG, ĐỊA KIẾP:
- Địa Kiếp độc
thủ thị kỳ phi nhân.
Có nghĩa: Mệnh có Địa Kiếp đứng một mình là
người ích kỷ, luôn cho mình là phải.
- Địa Kiếp chi đan tâm phương
lẫm.
Có nghĩa: Địa Kiếp thủ Mệnh với nhiều quí tinh thì lòng dạ sắt
son, kiên định.
- Dần, Thân, Không, Kiếp nhi ngộ quí tinh thăng trầm
vô độ.
Có nghĩa: Mệnh tại Dần, Thân có Kiếp, Không tọa thủ dẫu có
gặp nhiều sao đẹp hội họp thì trên đường đời vẫn gặp nhiều thăng trầm bất định,
tiền tài như đám mây trôi nổi, tụ tán thất thường.
- Tỵ, Hợi Kiếp,
Không nhi phùng Quyền, Lộc hoạnh đạt tung hoành.
Có nghĩa: Kiếp,
Không tại Tỵ Hợi có Quyền, Lộc hội họp tất là người tài giỏi nghênh ngang nhưng
cũng lại rất bôn ba, mau phát mau tàn.
- Kiếp, Cơ ngộ Hỏa tất ngộ
hỏa tai
Có nghĩa: Mệnh có Thiên Cơ, Địa Kiếp gặp Hỏa Tinh xung chiếu
hoặc đồng cung thì thường hay gặp hỏa tai như cháy nhà, cháy xưởng hoặc bị bỏng
do lửa....
- Nhan Hồi yểu tử do hữu Kiếp, Không, Đào, Hồng, Đà, Linh
tọa thủ
Có nghĩa: Thầy Nhan Hồi chết yểu chỉ vì Mệnh có Kiếp, Không,
Đà, Linh toạ thủ.
- Kiếp, Không, Phục Binh phùng Kình Dương nhẫn lột
thượng kiếp đồ.
Có nghĩa: Mệnh hội Kiếp, Không, Phục Binh, Kình
Dương làm côn đồ kẻ cướp.
- Mệnh cung ngộ Kiếp, Tham lãng lý hành
thuyền
Có nghĩa: Mệnh Địa Kiếp đứng cùng Tham Lang cuộc đời nổi trôi
bất định.
- Mệnh Không, Thân Kiếp lai hội song Hao, vô chính diệu
thiểu học đa thành.
Có nghĩa: Mệnh tại Mão có song Hao, Địa Không
đồng cung, Thân cư quan tại Mùi, có Địa Kiếp thì người tuổi Tân, Quý hay người
Thủy Mệnh là người thông minh, học ít hiểu nhiều tất thành đạt quý hiển.
- Mệnh Không, Thân Kiếp lại hội song Hao ư chính diệu, thiểu học đa
thành mạc ngộ Phúc Âm, Hao tinh niên thọ nan cầu vượng hưởng
Có
nghĩa: Mệnh Không, Thân Kiếp thêm song Hao mà Mệnh không chính tinh thì học
giỏi. Nhưng Mệnh Không, Thân Kiếp lại tối kị gặp Đồng, Lương, Phá Quân hãm địa
thì khó thọ
- Giáp Không giáp Kiếp chủ bần tiện.
Giáp
Kình giáp Đà vi khất cái.
Có nghĩa: Cung Thân hoặc Mệnh có hai sao
Không, Kiếp giáp biên tất là số nghèo hèn. Nếu lại giáp Kình, Đà là số bôn ba,
xuôi ngược kiếm kế sinh nhai.
- Xuất thế vinh hoa Quyền, Lộc thủ Tài
Quan chi vị.
Sinh lai bần tiện, Kiếp, Không lâm Tài Phúc chi hương.
Có nghĩa: Quyền và Lộc tọa thủ miếu địa tại Tài hoặc Quan, gia hội
nhiều cát tinh, nhất định đắc cách phú quý vinh hoa. Địa Không, Địa Kiếp đóng
vào Phúc hoặc Tài là người vận kiếp nghèo hèn.
- Mệnh trung ngộ
Kiếp, Tham do lãng lý hành thuyền.
Có nghĩa: Mệnh có Kiếp, Tham tọa
thủ đồng cung, giống như ngồi thuyền trên sóng cả. Có cách này thì trọn đời lao
khổ, nay đây mai đó và hay mắc tai nạn sông nước.
- Văn Xương, Văn
Khúc hội Liêm Trinh táng Mệnh yểu niên.
Mệnh Không, hạn Không vô cát
tấu, công danh thặng đặng.
Có nghĩa: Xương, Khúc thủ Mệnh tại Tỵ,
Hợi, nếu ngộ Liêm Trinh tất bị chết yểu. Người tuổi Tân tối kỵ gặp phải cách
này. Nhưng nếu được Vũ, Tướng tụ hội lại đắc cách, chủ có uy quyền. Mệnh và nhị
hạn phùng Không gia Kiếp, dù được nhiều cát tinh củng chiếu thì đường công danh
vẫn lận đận, cheo leo, không theo ý muốn. Hoặc có chính tinh hội tam Hóa và cát
tinh mà gặp Không, Kiếp tại Mệnh và hạn, dù có chuyên cần đèn sách cũng chỉ đạt
nửa vời.
- Mệnh Thân đồng cung Tỵ, Ngọ hoặc cư Tuyết xứ, vô chính
tinh.
Có nghĩa: Mệnh Thân đồng cung vô chính diệu tại Tỵ, Ngọ, Hợi
lại hội Mã, Linh, Hình, Kiếp, Không cùng chiếu, ví như hoa nở gặp mưa to gió
lớn, tất chung thân tân khổ, hình thương hoặc yểu vong.
- Miếu nhi
bất tú, Khoa danh hãm ư trung thần.
Phát bất chủ Tài, Lộc chủ triền
ư nhược địa.
Có nghĩa: Hóa Khoa bị hãm với Không, Kiếp hoặc Dương,
Đà đồng cung cho nên tài hoa mà yểu tử, do Khoa bị hãm với hung sát vật. Hóa Lộc
không làm vượng được tài lộc vì Hóa Lộc bị nhược địa với Kiếp, Không hoặc Lộc
lâm Tý, Ngọ, Mão, Dậu cũng vậy, chẳng những Lộc bị vô dụng mà còn chủ cô đơn,
bần hàn nữa.
- Tý, Ngọ Tham Đào, Ất Kỷ âm nam, lập nghiệp do Thê,
kiêm năng sát diệu, hành sự dụng thê.
Có nghĩa: Người âm nam, tuổi
Ất, Kỷ, mệnh lập tại Tý, Ngọ hội với Tham, Đào có vợ là người đảm lược, lập
thành cơ nghiệp. Trái lại, nếu hội với sát tinh là người có thể quên điều chính
nghĩa, dùng vợ vào các việc mưu cầu danh lợi.
- Thân cư quan, kiến
Triệt, Tuần Kiếp, Kỵ nam nhân phong vân vị tế, hựu phùng cát diệu, vũ lộ thừa
ân, khả đãi vãn niên dĩ hậu.
Có nghĩa: Nam số có Thân cư Quan, nếu
gặp Triệt, Tuần, Kiếp, Kỵ đồng cung, buổi thiếu thời tất phải lận đận, bôn ba vì
không gặp thời cơ. Nếu có được cát tinh củng chiếu, cũng phải đợi tới lúc vãn
niên mới được hưởng phúc lộc và tạo thành cơ nghiệp.
- Đế tinh tại
Tý nan giải hung nguy, lưu họa sát tinh La, Võng lao hình khôn vị thoát. Mệnh
nãi Dương, Đà, Kiếp hội vi thành thọ giảm.
Có nghĩa: Mệnh có Tử Vi
tại Tý là hãm, khi tốt tới vận hạn xấu nếu lại gặp sát tinh tất hung nguy, khó
thoát lao tù. Nếu cung Mệnh có Dương, Đà, Địa Kiếp hội, đến hạn La Võng có hung
sát tinh rất nguy cho tính mạng.
- Hạn chi Thiên Võng Khuất Nguyên
tịch thủy nhi vong.
Vấn ngộ Kiếp, Không (Thiên Không), Nguyễn Tịch
hữu bần cùng chi khố.
Có nghĩa: Ông Khuất Nguyên tự trầm vì nhị hạn
tới cung Thìn Tuất gặp Vũ, Tham, Tuế, Tang, Điếu, Hổ ngộ hung tinh chiếu lại
thành tối hung tại hạn. Ông Nguyễn Tịch lâm cảnh bần cùng vì nhị hạn gặp Kiếp,
Không tọa thủ lại tính hạn lưu niên cũng có sát tinh củng chiếu nên phải chịu
cảnh nghèo hèn. (Hạn gặp Không, Kiếp dù được cát tinh phù trì thì cũng không thể
tránh được cảnh tiền bạc tới rồi tiền bạc lại đi).
- Âm Dương vạn sự
Xương, Khúc, Kiếp, Không.
Có nghĩa: Muốn luận sự hay dở của Nhật
Nguyệt thì phải xét kỹ 4 sao Xương, Khúc, Kiếp, Không. Âm Dương hội họp với
Xương, Khúc là cách đẹp, còn hội với Kiếp, Không là phá cách, nhẹ thì số lận đận
lao đao, nặng thì gặp tai họa.
- Nhật Nguyệt Sửu Mùi tối cần Kỵ,
Không phả vi đại cát.
Có nghĩa: Nhật Nguyệt tọa thủ đồng cung tại
Sửu, Mùi là thế hỗn độn, nếu gặp được Không Vong (Tuần, Triệt, Thiên Không, Địa
Không) sẽ tạo thành một cách đẹp, nếu thêm cả Hóa Kỵ nữa thì thật là một kỳ
cách.
- Vũ Khúc, Kiếp Sát hội Kình Dương nhân tài trì đao.
Có nghĩa: Vũ Khúc, Kiếp Sát thủ Mệnh hội với Kình Dương là người
giỏi về đao pháp.
- Lộc cư Nô bộc trong hữu quan dã bôn trì.
Đế ngộ hung đồ tuy hoạch cát nhi vô đạo.
Có nghĩa: Hóa
Lộc (hoặc Lộc Tồn) thủ cung Nô thì dù có được công danh cũng bôn ba, lận đận. Tử
Vi ngộ Không, Kiếp suốt đời chẳng làm được việc gì nên thân. Nhưng nếu Tử Vi ngộ
Hình, Kỵ hội Quyền, Lộc thì dẫu có đẹp đấy nhưng vẫn là kẻ có tâm thuật bất
chính, gian manh.
- Sinh sứ Kiếp, Không thủ Mệnh do như bán thiên
triết sỉ.
Có nghĩa: Kiếp, Không thủ Mệnh ở Tỵ, Hợi, Dần, Thân là nơi
của sao Tràng sinh lên như diều gặp gió, xuống như chúi vào bùn đen.
- Sinh phùng Thiên Không do như bán thiên triết sỉ.
Mệnh
trung ngộ Kiếp hợp như lãng lý hành thuyền.
Có nghĩa: Mệnh có Thiên
Không tọa thủ về trung vận tất phải suy giảm, nếu đắc hoạnh phát sau tất chết
dữ. (Người tuổi Tý Mệnh tại Hợi, người tuổi Ngọ Mệnh tại Tỵ hay gặp cách này).
Cung Mệnh có sao Địa Kiếp gia Sát, Kỵ rất hung, giống con thuyền nhỏ đi trên
biển vậy.
- Hạng Vũ anh hùng hạn ngộ Thiên Không nhi thân táng quốc.
Thạch Sùng hào phú hạn hành Địa Kiếp dĩ vong gia.
Có
nghĩa: Anh hùng như Sở Bá Vương, hạn gặp Thiên Không cũng phải mất nước. Giàu
phú gia địch quốc như Thạch Sùng hạn phùng Địa Kiếp, gia tài tất thảy cũng tan
nát.
- Khôi Việt trùng phùng Sát Tấu cố tật ưu đa.
Có
nghĩa: Lưu niên Khôi Việt trùng phùng, ngộ Dương, Đà, Không, Kiếp chủ bị mang cố
tật.
- Lộc chủ triều ư nhược địa, Mệnh bất chủ tài.
Có
nghĩa: Hóa Lộc (hoặc Lộc Tồn) lạc hãm là bại địa, hoặc Lộc ngộ Không, Kiếp là số
không làm được ra tiền của.
- Khoa danh hãm ư hung thần, miêu nhi
bất tú.
Có nghĩa: Nhật cư Tuất, Nguyệt cư Mão, gặp Khoa hãm địa hoặc
hội Dương, Đà, Không, Kiếp là chủ sự tài hoa mà bạc mệnh, là người có tài mà
chết non.
- Kiếp, Không lâm hạn, Sở Vương táng quốc Lộc Châu vong.
Có nghĩa: Sở Bá Vương bị mất nước, cũng như người Lộc Châu chết, đều
vì nhị hạn gặp Kiếp Không (hoặc Thiên Không).
- Sinh xứ Kiếp Không
do như bán thiên triết sỉ.
Có nghĩa: Thân và Mệnh nếu an tại các
cung hãm địa, có Không, Kiếp lâm thủ, chẳng khác gì con chim “giữa trời gãy
cánh”.
- Kiếp, Không Tài Phúc chi hương, sinh lai bần tiện.
Có nghĩa: Địa Không, Địa Kiếp đóng vào cung Phúc hoặc Tài là người
mới sinh ra đã chịu cảnh nghèo hèn.
- Thiên Thương gia ác diệu,
Trọng Ni tuyệt lương, Đặng Thông vong.
Có nghĩa: Hạn
Thiên Thương ngộ Địa Không, Địa Kiếp, Đức Trọng Ni bị đói ở đất Tần, cũng như
Đặng Thông bị thiệt mạng vì gặp phải hạn như vậy.
- Sinh phùng bại
địa phát dữ như hoa.
Tuyệt xứ phùng sinh hoa như bất bại.
Có nghĩa: Mệnh ở vào hãm địa, dù có gặp được cơ hội may mắn thì cũng
chóng tàn. Người Thủy Mệnh, Hỏa Mệnh nếu Mệnh ngộ sao Tuyệt tại Tý, Hợi với
Không, Kiếp là được cách “tuyệt xứ phùng sinh” và được hưởng thêm cách “phản vi
kỳ” nếu tam phương được Khoa, Quyền, Lộc củng chiếu.
- Thiên Đồng cư
Tý, Hợi thủ Mệnh phùng Không, Kình tàn tật, cô khắc.
Có nghĩa: Thiên Đồng thủ Mệnh tại Tỵ, Hợi hội Địa Không, Kình Dương là người tàn
tật, không ưa ai, chỉ sống cô độc.
- Kiếp, Không Tỵ Hợi, Tướng, Mã
đồng cư nhi hội Khoa tinh, loạn thế phùng quân.
Có nghĩa: Kiếp,
Không đồng cung tại, Tỵ, Hợi gặp Tướng, Mã đồng cung và được Khoa chiếu là người
có tài, gặp được quý nhân để làm nên sự nghiệp hiển hách trong thời loạn.
V. NHỮNG TRƯỜNG HỢP ĐẶC BIỆT CỦA ĐỊA KHÔNG, ĐỊA KIẾP:
5.1: Những đặc lệ của Kiếp, Không ở Mệnh:
Theo tác giả
Nguyễn Phát Lộc thì Kiếp, Không thủ Mệnh có những đặc lệ sau:
a.
Mệnh vô chính diệu có Tứ hay Tam Không: Đây là một cách rất tốt về phú quý nhưng
vẫn không toàn vẹn, tức là: Hoặc vất vả mới đạt danh tài, hoặc thụ hưởng không
lâu bền, bộc phát giai đoạn.
b. Mệnh Không, Thân Kiếp: Là người khôn
ngoan, sắc sảo nhưng trong đời vui ít buồn nhiều, thành bại thất thường, làm
việc gì cũng chóng nhưng cũng mau tàn. Nếu có Đại Tiểu Hao hội họp thì hóa giải
được nhiều bất lợi và lập được công danh hiển hách. Tuy nhiên, nếu có Thiên
Đồng, Thiên Lương hay Phá Quân ở Mệnh hay Thân thì yểu mạng.
c. Mệnh
Kiếp, Thân Không: Người khôn ngoan, sắc sảo nhưng bại nhiều, thành ít, chóng lên
chóng xuống, thăng trầm bất ngờ, thất thường. Nếu Mệnh vô chính diệu có Đào Hồng
thì yểu mạng, nếu không lúc nhỏ rất vất vả, gian truân. Nếu Mệnh, Thân có Nhật
Nguyệt hay Tử Vi sáng sủa tốt đẹp thì đủ ăn đủ mặc.
5.2: Những
trường hợp ngoại biệt của Kiếp, Không:
- Người Tứ Mộ (sinh Thìn,
Tuất, Sửu, Mùi) không sợ Không, Kiếp lắm. Ngay cách Mệnh Không Thân Kiếp rất xấu
với các tuổi nhưng với tuổi Tứ mộ này thì lại không bị xấu.
- Người
Mệnh Kim, Mệnh Thổ không sợ cách Mệnh Không Thân Kiếp như các tuổi khác, ngược
lại còn danh tài hoạnh phát, chung thân phú quý.
- Người sinh tháng
4, tháng 10 được hưởng cách Kiếp Không vô luận, vì những người sinh 2 tháng này
được Tả, Hữu đồng cung tại Sửu, Mùi mà những người Tả Hữu Sửu Mùi này đều có tài
năng khéo léo, biết tính trước ngừa sau, không quá hấp tấp vội vã, không tự tung
tự tác, không sôi máu Không, Kiếp nên Không, Kiếp không gây họa!
-
Người sinh tháng Giêng, tháng Bẩy cũng không đáng ngại Không, Kiếp hành hạ vì có
Tả, Hữu nằm chực sẵn tại chỗ (Thìn, Tuất) nên rất dè dặt, cẩn thận trong công
việc.
- Kiếp, Không Tỵ, Hợi phát dã như lôi nhưng chỉ người Tứ Mộ
mới được hưởng trọn vẹn cách đó, còn các tuổi khác kém hơn và không được bền.
- Kiếp, Không tại Dần, Thân không gây tác hại bởi khi phù, khi diệt
nên cuộc đời thăng trầm bất định, tiền tài nay tụ mai tán nhưng không bị tai họa
nặng nề như 8 vị trí hãm địa khác.
LỜI KẾT:
Trong hệ thống các sao Tử Vi thì Địa Không, Địa
Kiếp là 2 sao ác sát, không bao giờ tử tế với ai (trừ một số trường hợp ngoại
biệt đã nêu). Cho dù ở thế đắc địa thì Không, Kiếp vẫn tiềm ẩn những tai họa có
thể sẽ gây cho đương số những bất trắc, đau khổ trên nhiều phương diện mà sức
người khó cưỡng chế. Còn khi hãm địa thì sức phá hại của Không, Kiếp trở nên bạo
liệt, tàn ác cả về số lần họa hại lẫn cường độ gây họa trên nhiều bình diện
khiến con người hoàn toàn bất lực.
Không như các tinh đẩu khác còn
chịu sự khắc chế của các sao khác, nhất là các cát tinh nhưng Không, Kiếp lại
rất ít sao có thể khắc chế được (phần nào) tính côn đồ, chuyên gây họa của
Không, Kiếp mà ngược lại, nhiều khi cát tinh lại bị Không, Kiếp (nhất là khi hãm
địa) phá hết những cách tốt đẹp, làm cho cuộc đời con người trầm luân trong đau
khổ, bất hạnh.
Đây thật sự là 2 ác tinh hạng nặng của đời người. Vì
thế, khi coi số cần cứu xét thật cẩn thận về thế đứng của Kiếp, Không để lời
luận giải đưa ra được chính xác.
(Trích từ: TỬ VI KIẾN GIẢI của Đặng Xuân Xuyến; Nhà xuất bản Thanh Hóa xuất bản
lần đầu năm 2009.)
Hà Nội, cuối năm Quý Mùi (2004)
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
0 Comment: