Nhớ chuyện thịt heo tết năm xưa- NPV (NhuYGialai)
Phố núi và bạn bè... Chút gì để nhớ!
NHỚ CHUYỆN THỊT HEO TẾT NĂM XƯA…
Tết cổ truyền của người Việt dường như không thể thiếu những món ăn làm từ thịt heo. Nhiều món như bánh chưng, bánh tét, chả giò, nem chua, giò hầm măng, ngâm mặn, ngâm chua … không chỉ dùng để cúng tất niên, cúng ông bà tổ tiên mà còn dùng vào bữa ăn ngày tết như một truyền thống, một hương vị đặc trưng riêng. Dù giàu sang hay nghèo hèn, thật khó tưởng tượng ngày tết lại vắng bóng vài món ăn từ thịt heo.
Trước 1975 cứ tết đến là nhà tôi đầy ắp thịt heo, phải chế biến thành nhiều món như ngâm mắm, làm chua, kho mặn… mới để được lâu, ăn dần ra giêng vẫn chưa hết. Không phải vì nhà tôi mua sắm dôi dư. Nguyên do do ông nội tôi nổi tiếng về nghề tay trái đứng đầu trong tứ đại ngu (làm mai, gán nợ, gác cu, cầm chầu)- tức làm mai mối cưới xin. Hồi ấy chưa phổ biến tự do yêu đương, tìm hiểu như bây giờ; muốn nên vợ nên chồng đa phần đều cậy nhờ mai mối như một phần tất yếu để tiến đến hôn nhân. Ông mai chịu trách nhiệm làm cầu nối giữa hai nhà trai, gái; thuận lợi thì tiến đến làm lễ hỏi, lễ cưới. Dân làng Phương Hòa, Tân Điền và nghe đâu cả thị xã KonTum hồi ấy đồn khắp và tin rằng ông tôi vô cùng mát tay, cặp nào nên vợ nên chồng nhờ ông tôi mai mối đều hạnh phúc, con cái nếp tẻ đàng hoàng, cả nhà mạnh khỏe, làm ăn tấn tới… Vậy nên ông tôi được “đắt sô” cậy nhờ làm mai quanh năm. Tôi thường theo ông tôi “phụ tá”, đảm nhận việc bưng cái mâm lót khăn điều đựng đầu heo, mấy đứa khác bưng mâm trầu cau, rượu, … lễ. Các cặp đôi sau khi thành vợ chồng đến tết đến lại đem biếu ông mai cái đầu heo sống kèm ít đồ lòng, thịt ngon… theo phong tục gọi là tạ ơn, sau ba năm hoặc khi nào có con mới thôi ( cái này thì tôi không nhớ rõ). Vậy nên cứ tết là nhà tôi ê hề thịt heo…
Hình ảnh phân phối thịt heo thời bao cấp
"Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ
Cây nêu, tràng pháo bánh chưng xanh "
Cây nêu, tràng pháo bánh chưng xanh "
Tết cổ truyền của người Việt dường như không thể thiếu những món ăn làm từ thịt heo. Nhiều món như bánh chưng, bánh tét, chả giò, nem chua, giò hầm măng, ngâm mặn, ngâm chua … không chỉ dùng để cúng tất niên, cúng ông bà tổ tiên mà còn dùng vào bữa ăn ngày tết như một truyền thống, một hương vị đặc trưng riêng. Dù giàu sang hay nghèo hèn, thật khó tưởng tượng ngày tết lại vắng bóng vài món ăn từ thịt heo.
Trước 1975 cứ tết đến là nhà tôi đầy ắp thịt heo, phải chế biến thành nhiều món như ngâm mắm, làm chua, kho mặn… mới để được lâu, ăn dần ra giêng vẫn chưa hết. Không phải vì nhà tôi mua sắm dôi dư. Nguyên do do ông nội tôi nổi tiếng về nghề tay trái đứng đầu trong tứ đại ngu (làm mai, gán nợ, gác cu, cầm chầu)- tức làm mai mối cưới xin. Hồi ấy chưa phổ biến tự do yêu đương, tìm hiểu như bây giờ; muốn nên vợ nên chồng đa phần đều cậy nhờ mai mối như một phần tất yếu để tiến đến hôn nhân. Ông mai chịu trách nhiệm làm cầu nối giữa hai nhà trai, gái; thuận lợi thì tiến đến làm lễ hỏi, lễ cưới. Dân làng Phương Hòa, Tân Điền và nghe đâu cả thị xã KonTum hồi ấy đồn khắp và tin rằng ông tôi vô cùng mát tay, cặp nào nên vợ nên chồng nhờ ông tôi mai mối đều hạnh phúc, con cái nếp tẻ đàng hoàng, cả nhà mạnh khỏe, làm ăn tấn tới… Vậy nên ông tôi được “đắt sô” cậy nhờ làm mai quanh năm. Tôi thường theo ông tôi “phụ tá”, đảm nhận việc bưng cái mâm lót khăn điều đựng đầu heo, mấy đứa khác bưng mâm trầu cau, rượu, … lễ. Các cặp đôi sau khi thành vợ chồng đến tết đến lại đem biếu ông mai cái đầu heo sống kèm ít đồ lòng, thịt ngon… theo phong tục gọi là tạ ơn, sau ba năm hoặc khi nào có con mới thôi ( cái này thì tôi không nhớ rõ). Vậy nên cứ tết là nhà tôi ê hề thịt heo…
Hình ảnh phân phối thịt heo thời bao cấp
Sau 1975 miền nam giải phóng, thực hiện “nếp sống văn minh mới”, chuyện mai mối bị xóa bỏ, phong tục biếu đầu heo cho ông mai khi tết về đương nhiên cũng không còn. Mà muốn biếu cũng chẳng có đầu heo đâu để biếu. Bởi khi đó toàn bộ nông thôn bắt buộc phải vào hợp tác xã làm ăn- chia theo công điểm, bắt đầu một giai đoạn đói rách thê thảm kéo dài suốt hơn thập niên. Tất cả trâu bò đều do hợp tác xã quản lý; chỉ khi già yếu, tai nạn mới được xẻ thịt chia cho xã viên mỗi nhà vài miếng. Heo nuôi phải đăng ký, phải bán cho hợp tác xã theo giá quy định để hợp tác xã xẻ thịt và bán phân phối ngược lại cho xã viên. Ai lén bán ra ngoài nhỡ bị bắt là tịch thu, phạt nặng, còn bị đem ra trước dân phê bình kiểm điểm. Nuôi lỗ lại phiền phức chẳng được gì, riết rồi chẳng ai thèm nuôi. Thịt heo dần trở thành một thứ lạ lẫm, ngày thường chẳng có mà ăn, tết càng trở nên xa xỉ.
Chỉ sau vài năm thiếu đói, cả bầy anh em chúng tôi và bạn bè đồng lứa đứa nào cũng ốm tong teo... Bữa ăn nào cơm không phải độn khoai khô, có chút cá đồng, tôm tép kho mặn chát đã là sung sướng vô cùng. Đâu như nửa năm 1978-1979, ba má tôi quyết định nuôi lén một con heo để tết có mà bồi dưỡng cho đàn con. Anh em chúng tôi được dặn dò không để lộ ra ngoài, suốt ngày cứ háo hức ra vô chuồng heo xem chừng nó lớn được bao nhiêu. Con heo cũng thiếu ăn như người nên nuôi suốt năm sáu tháng mà chỉ khoảng 30-35kg. - “Heo đẹt thịt càng ngon”, ông nội tôi tự an ủi. Ngày cận tết, ông dậy từ gà gáy nhóm lửa đun một nồi nước to để trụng lông heo. Tôi cũng dậy sớm ngồi sưởi ấm bên bếp vì trời cuối đông lạnh quá không ngủ được. Thấy ông tôi thắp 3 nén nhang đến trước chuồng heo lầm rầm khấn vái gì đó rồi bàn với ba tôi:
- Đập đầu thôi, chứ thọc huyết nó rống cả làng nghe thì không xong với mấy ổng đâu. Mà mầy có biết thọc huyết bao giờ đâu.
Ba tôi: “dạ” rồi lấy cây chày vồ giã gạo bước vào chuồng heo, đưa chày lên cao, lựa thế xuống tấn lấy đà… Nghe một tiếng “bịch”, rồi tiếng ”éc” hoảng loạn; con heo phóng vút một cái qua thành chuồng chạy biến vào màn sương mờ đục. Ba tôi ngẩn người buông chày, mãi vẫn như chưa hiểu chuyện gì xảy ra. Bà nội tôi, má tôi trong bếp chạy ra, mặt người nào người nấy méo xẹo như muốn khóc. Ông tôi thẩn thờ mất chặp sau mới thốt nên lời, giọng xứ Nẫu rặt ri:
- Thâu rầu, công tao nấu cái nầu nước sâu, hổng lẽ để tao trụng tao?”.
Cả nhà chia nhau sục sạo, lục tung mọi bờ bụi khắp vườn nhà, luôn mấy đám rẫy chung quanh đến hết ngày vẫn không thấy tăm hơi con heo đâu, yên chí là mất, không khí buồn hiu như có đám ma. Không ngờ chạng vạng, đang bữa cơm tối thì con heo liêu xiêu mò về. Má tôi mừng quá, quýnh quáng đem cám ra nhử. Ai nấy đều bỏ dỡ bữa ăn hồi hộp theo dõi. Chắc do đói khát quá nên cu cậu quên mất tai họa ban sáng, vừa ăn vừa theo lần vào chuồng. Nồi nước sôi không còn vì ông nội tôi pha tắm từ trưa, bà nội tôi định mai lại làm thịt heo nhưng ông tôi cản:
- Đã vậy thôi không làm nữa, nhà mình hồi giờ đâu có sát sinh…
Bà tôi nói:
- Vậy chớ nuôi cắc ca cắc củm để làm gì? Ông bồ tát từ bi, còn tui bụng bồ dao găm chắc? Lũ cháu tui cả năm trời không biết đến miếng thịt kia kìa…
Ông tôi trầm ngâm không nói, còn ba tôi cười buồn:
- Lỗi tại con. Thôi để con bảo dượng Ba mai qua làm giúp, chia cho nhà dượng ấy một ít cùng ăn tết vậy. Chứ con không giết nó được đâu.
Dượng Ba vốn rể bà con với nhà tôi, nhà cách cũng không xa. Sau này tôi mới biết đó là lần đầu tiên và duy nhất trong đời ba tôi làm cái việc sát sanh một con vật nuôi nhưng bất thành...
Vậy là sáng hôm sau ông nội tôi lại dậy sớm, hì hục nhóm lửa nấu nồi nước sôi khác. Đúng hẹn dượng Ba tôi qua, chỉ bằng một khúc củi nhỏ, “bụp” một cái là xong đời con heo. Dượng vừa làm thịt vừa kể chuyện đi rừng săn thú bằng lưới giăng rồi dùng chó đuổi, có khi gặp heo rừng to đến vài tạ mắc vào, chỉ cần khúc cây bằng bắp chân là dượng có thể đập một phát một chết tươi. So với heo rừng thì con heo nhà tôi chỉ như con muỗi. Dượng chê ba tôi không biết chổ “nghiệt”, có dùng búa tạ cũng chẳng ăn thua gì.
Khỏi cần nói thì ai cũng hiểu năm đó anh em chúng tôi có một cái tết hoành tráng, “được ăn” sung sướng biết nhường nào. Bà nội tôi cứ lui cui ra vào bếp dặn đi dặn lại má tôi: -“Nhớ nêm muối in ít thôi, nấu lạt lạt cho tụi nhỏ ăn được nhiều…”. Đủ các món chế biến từ thịt heo theo kiểu làng quê, dân dã… nhưng ngon đến mức sau mấy chục năm, cảm giác vẫn không cao lương mỹ vị nào sánh bằng. Riêng tôi vì ăn nhiều quá nên bội thực, bị “Tào tháo đuổi” suốt 3 ngày tết chẳng đi đâu được, người xanh mét như tàu lá. Đúng là nhớ đời…
Chỉ sau vài năm thiếu đói, cả bầy anh em chúng tôi và bạn bè đồng lứa đứa nào cũng ốm tong teo... Bữa ăn nào cơm không phải độn khoai khô, có chút cá đồng, tôm tép kho mặn chát đã là sung sướng vô cùng. Đâu như nửa năm 1978-1979, ba má tôi quyết định nuôi lén một con heo để tết có mà bồi dưỡng cho đàn con. Anh em chúng tôi được dặn dò không để lộ ra ngoài, suốt ngày cứ háo hức ra vô chuồng heo xem chừng nó lớn được bao nhiêu. Con heo cũng thiếu ăn như người nên nuôi suốt năm sáu tháng mà chỉ khoảng 30-35kg. - “Heo đẹt thịt càng ngon”, ông nội tôi tự an ủi. Ngày cận tết, ông dậy từ gà gáy nhóm lửa đun một nồi nước to để trụng lông heo. Tôi cũng dậy sớm ngồi sưởi ấm bên bếp vì trời cuối đông lạnh quá không ngủ được. Thấy ông tôi thắp 3 nén nhang đến trước chuồng heo lầm rầm khấn vái gì đó rồi bàn với ba tôi:
- Đập đầu thôi, chứ thọc huyết nó rống cả làng nghe thì không xong với mấy ổng đâu. Mà mầy có biết thọc huyết bao giờ đâu.
Ba tôi: “dạ” rồi lấy cây chày vồ giã gạo bước vào chuồng heo, đưa chày lên cao, lựa thế xuống tấn lấy đà… Nghe một tiếng “bịch”, rồi tiếng ”éc” hoảng loạn; con heo phóng vút một cái qua thành chuồng chạy biến vào màn sương mờ đục. Ba tôi ngẩn người buông chày, mãi vẫn như chưa hiểu chuyện gì xảy ra. Bà nội tôi, má tôi trong bếp chạy ra, mặt người nào người nấy méo xẹo như muốn khóc. Ông tôi thẩn thờ mất chặp sau mới thốt nên lời, giọng xứ Nẫu rặt ri:
- Thâu rầu, công tao nấu cái nầu nước sâu, hổng lẽ để tao trụng tao?”.
Cả nhà chia nhau sục sạo, lục tung mọi bờ bụi khắp vườn nhà, luôn mấy đám rẫy chung quanh đến hết ngày vẫn không thấy tăm hơi con heo đâu, yên chí là mất, không khí buồn hiu như có đám ma. Không ngờ chạng vạng, đang bữa cơm tối thì con heo liêu xiêu mò về. Má tôi mừng quá, quýnh quáng đem cám ra nhử. Ai nấy đều bỏ dỡ bữa ăn hồi hộp theo dõi. Chắc do đói khát quá nên cu cậu quên mất tai họa ban sáng, vừa ăn vừa theo lần vào chuồng. Nồi nước sôi không còn vì ông nội tôi pha tắm từ trưa, bà nội tôi định mai lại làm thịt heo nhưng ông tôi cản:
- Đã vậy thôi không làm nữa, nhà mình hồi giờ đâu có sát sinh…
Bà tôi nói:
- Vậy chớ nuôi cắc ca cắc củm để làm gì? Ông bồ tát từ bi, còn tui bụng bồ dao găm chắc? Lũ cháu tui cả năm trời không biết đến miếng thịt kia kìa…
Ông tôi trầm ngâm không nói, còn ba tôi cười buồn:
- Lỗi tại con. Thôi để con bảo dượng Ba mai qua làm giúp, chia cho nhà dượng ấy một ít cùng ăn tết vậy. Chứ con không giết nó được đâu.
Dượng Ba vốn rể bà con với nhà tôi, nhà cách cũng không xa. Sau này tôi mới biết đó là lần đầu tiên và duy nhất trong đời ba tôi làm cái việc sát sanh một con vật nuôi nhưng bất thành...
Vậy là sáng hôm sau ông nội tôi lại dậy sớm, hì hục nhóm lửa nấu nồi nước sôi khác. Đúng hẹn dượng Ba tôi qua, chỉ bằng một khúc củi nhỏ, “bụp” một cái là xong đời con heo. Dượng vừa làm thịt vừa kể chuyện đi rừng săn thú bằng lưới giăng rồi dùng chó đuổi, có khi gặp heo rừng to đến vài tạ mắc vào, chỉ cần khúc cây bằng bắp chân là dượng có thể đập một phát một chết tươi. So với heo rừng thì con heo nhà tôi chỉ như con muỗi. Dượng chê ba tôi không biết chổ “nghiệt”, có dùng búa tạ cũng chẳng ăn thua gì.
Khỏi cần nói thì ai cũng hiểu năm đó anh em chúng tôi có một cái tết hoành tráng, “được ăn” sung sướng biết nhường nào. Bà nội tôi cứ lui cui ra vào bếp dặn đi dặn lại má tôi: -“Nhớ nêm muối in ít thôi, nấu lạt lạt cho tụi nhỏ ăn được nhiều…”. Đủ các món chế biến từ thịt heo theo kiểu làng quê, dân dã… nhưng ngon đến mức sau mấy chục năm, cảm giác vẫn không cao lương mỹ vị nào sánh bằng. Riêng tôi vì ăn nhiều quá nên bội thực, bị “Tào tháo đuổi” suốt 3 ngày tết chẳng đi đâu được, người xanh mét như tàu lá. Đúng là nhớ đời…
- NPV(NhuYGialai)- Xuân Tân Sửu 2021.
0 Comment: