Hoa hồng trắng đêm Giáng sinh (Audiobook)
Phố núi và bạn bè... Chút gì để nhớ!
HOA HỒNG TRẮNG ĐÊM GIÁNG SINH (Audiobook)
Tác phẩm đoạt giải Nobel
Tác giả: Selma Lagerlof
Dịch giả: Hải Nguyên
Tác giả: Selma Lagerlof
Dịch giả: Hải Nguyên
Vợ
tên cướp ẩn náu trong hang đá, trên rừng gà Gô-ing, một hôm lên đường xuống đồng
bằng để xin ăn. Tên cướp, một kẻ bị pháp luật cấm đoán, không dám rời khu rừng,
bắt buộc chỉ đánh bẫy cưới giật những ai phiêu lưu vào miền rừng rậm. Nhưng thời
ấy, khách đi đường không có nhiều ở vùng Bắc Sca-ni. Và lúc nào, vì lẽ trên, sự
cướp giật chẳng ra trò gì, thì mụ vợ tên cướp lại mở một cuộc tuần du đây đó. Mụ
dẫn theo năm đứa con trai nhỏ, đứa nào cũng toàn áo quần bằng da thú và chân đi
giày bằng vỏ cây phong; mỗi đứa, trên lưng, mang theo một đãy hai túi, dài lòng
thòng bằng chúng. Khi mụ vào một nông trại thì không một ai dám từ chối, không
giúp đỡ cho mụ; vì lỡ nếu không được tiếp đãi tử tế, thì liền đêm sau, mụ không
ngần ngại trở lại đốt cháy tất cả. Mụ vợ tên cướp với đàn con nít đó thật đáng
ghê sợ hơn cả một bầy sói dữ. Và, hơn một lần, có kẻ muốn cầm giáo đâm sâu vào
thịt chúng, nhưng điều ấy chẳng bao giờ xảy ra, bởi vì người ta đều biết chồng
mụ, vẫn ở trên rừng sâu kia, sẵn sàng báo thù nếu có điều gì không lành xảy ra
cho vợ con hắn.
Trong
lúc xin ăn qua khắp nông trại, tình cờ một hôm mụ vợ tên cướp đến tại Ô-vêc,
thuở ấy là một tu viện. Mụ gọi chuông nơi cổng và xin ăn. Người giữ cửa mở cái
lỗ nhỏ trổ giữa cánh cửa ngõ và đưa ra sáu ổ bánh mì tròn, một cho mụ và một
cho mỗi đứa nhỏ.
Trong
lúc mụ đứng trước ngõ, những đứa nhỏ bỏ đi lục lạo khắp xung quanh. Thình lình,
một trong bọn chạy tới nắm lôi chéo váy để chỉ mụ lưu ý một vật gì nó vừa tìm
ra; mụ liền đi theo nó.
Khắp
bốn mặt tu viện có vách cao chắc chắn. Nhưng đứa bé đã tìm ra được một cổng nhỏ
ẩn kín và lại hé mở. Khi mụ vợ tên cướp đến nơi, mụ liền mở rộng cánh cổng, rồi
ngang nhiên đi vào không xin phép xin tắc gì cả, đó là thói quen của mụ.
Tu
viện Ô-vêc thuở ấy thuộc quyền điều khiển của viện trưởng Hâng. Ông này chuyên
lo trồng trọt. Phía bên trong bốn vách, ông đã gầy được một mảnh vườn nhỏ; và
chính giữa nơi này, mụ vợ tên cướp bất thình lình xuất hiện.
Thoạt nhìn vào, mụ vợ tên cướp ngạc nhiên đến nỗi phải dừng ngay lại nơi cổng. Chính là giữa mùa hè, nhưng trong vườn viện trưởng Hâng, bông hoa chen lấn nhau cực kỳ đông đảo và làm cho mắt người ngời chói không thể phân biệt được gì khác là những ánh lửa nhấp nháy xanh đỏ và vàng. Nhưng phút chốc, một nụ cười thoải mái nở ra trên mặt mụ và mụ đi sâu vào con đường hẹp chạy giữa không biết bao nhiêu là bồn hoa nhỏ.
Giữa
vườn, một sư huynh giúp việc đang nhổ cỏ dại. Chính sư huynh này đã để cổng hé
mở, để có thể ném những cây mộc tặc và cỏ gà mới nhổ ra bên ngoài, lên trên những
đống rác. Khi thấy mụ vợ tên cướp và năm đứa trẻ vào vườn, chú vội chạy ngay đến
trước mặt, đón lại, và ra lệnh bảo phải ra. Nhưng mụ ăn xin cứ tiếp tục đi vào.
Mụ nhìn khắp nẻo, khi thì mụ đăm đăm nhìn những cây huệ cứng và trắng nở trên một
bồn hoa, khi thì những dây trường xuân leo cao trên vách tu viện và hình như mụ
không nhận thấy sự hiện diện của sư huynh.
Sư
huynh nghĩ có lẽ mụ ta không hiểu mình. Chú muốn nắm tay mụ để buộc mụ phải
quay ra nẻo cổng. Nhưng mụ vợ tên cướp hiểu ý, ném thẳng vào mặt chú một cái
nhìn làm cho chú phải bước lui lại. Từ nãy giờ, mụ vẫn đi, lưng cong xuống dưới
sức nặng của cái đãy hai túi, nhưng bây giờ đây, mụ ưỡng thẳng trả cả người
lên.
-
Ta là vợ tên cướp ở Gô-ing đây, mụ bảo thế. Giờ thì chú mày thử mó vào người
tao đi, nếu chú mày dám.
Và
thực sự sau khi thốt lên lời trên, mụ có cảm giác vững chắc rằng không một ai
dám động đến mụ nữa, không khác nào mụ là hiện thân của nữ chúa xứ Đan Mạch.
Tuy
thế sư huynh cần vụ vẫn còn dám làm phiền mụ; đành rằng khi biết mụ là ai, thì
lời lẽ chú trở nên nhỏ nhẹ.
-
Mụ nên biết, chú nói, mụ, mụ vợ tên cướp, đây là một tu viện và không một người
đàn bà nào trong xứ được phép vào bên trong những vách cấm. Nếu mụ không chịu
ra, những tu sĩ sẽ la rầy tôi, vì tôi quên đóng cổng, và có lẽ tôi sẽ bị đuổi
khỏi tu viện này, khỏi cái vườn này.
Nhưng
những lời van xin đều vô ích với mụ vợ tên cướp. Mụ tiếp tục đi vào phía góc
trong những bồn hoa hồng, nhìn cây bài hương hoa màu xám vải gai, nhìn cây kim
ngân đầy những cánh hoa màu da cam…
Như
thế sư huynh giúp việc không còn cách nào hay hơn là chạy vào tu viện để cầu cứu.
Phút
chốc, chú trở ra với hai tu sĩ lực lưỡng và mụ vợ tên cướp hiểu ngay giờ thì
câu chuyện nghiêm trọng hơn. Mụ đứng thẳng người, hai chân giãn ra, ngay giữa
con đường nhỏ, và bắt đầu thét lên một giọng chói tai tất cả sự báo thù khủng
khiếp mụ sẽ sử dụng để chống lại tu viện nếu người ta không cho mụ được phép ở
trong vườn theo ý muốn của mụ. Nhưng những tu sĩ này nghĩ không cần phải sợ mụ
và chỉ chực lôi mụ ra khỏi vườn. Tức thì mụ vợ tên cướp rống lên những tiếng rống
dữ dội nhảy xô lại những người kia vừa cấu vừa cắn và tất cả lũ trẻ cũng ùa lại
hành hung không kém. Ba người đàn ông kia trong chốc lát đủ nhận thấy mụ mạnh
hơn nhiều. Và không còn cách gì khác là trở vào tu viện tìm thêm người trợ lực.
Trên
đường vào bên trong tu viện, họ gặp viện trưởng Hâng đương chạy ra để biết
nguyên nhân cuộc cãi vã ồn ào từ ngoài vườn dội lại. Những người này phải thú
nhận rằng mụ vợ tên cướp ở Gô-ing vừa vào trong tu viện và vì họ không thể đuổi
mụ ra được nên họ bắt buộc phải tìm thêm người đến trợ lực. Nhưng viện trưởng
Hâng khiển trách họ đã dùng bạo lực và cấm không cho họ tìm thêm người đến nữa.
Viện trưởng Hâng bảo hai người kia trở vào lo phận sự; và, mặc dầu viện trưởng
chỉ là một ông già, gầy yếu, ông ta chỉ cùng một mình sư huynh giúp việc trở ra
vườn.
Khi
viện trưởng Hâng bước vào vườn, mụ vợ tên cướp vẫn điềm nhiên như trước, vẫn đi
bách bộ giữa những bồn hoa. Viện trưởng Hâng không khỏi không ngạc nhiên khi
trông thấy mụ. Ông tin chắc rằng trong đời mụ chưa bao giờ thấy một khu vườn. Ấy
thế, mụ đi mãi giữa những bồn hoa trong đó, mỗi bồn một loại hoa riêng biệt và
lạ mắt, và mụ nhìn những hoa như nhìn những người bạn mến thương xưa cũ! Mụ có
vẻ như biết tất cả, đây là dây trường xuân, đây là cành từ bi, đây là cây mê diệt…
Dừng trước một vài hoa này, mụ mỉm cười, dừng trước một vài hoa khác, mụ nhè nhẹ
gật đầu…
Viện
trưởng Hâng yêu cái vườn mình với tất cả khả năng để yêu bất cứ hình ảnh ngắn
ngủi nào ngay trong cuộc đời này. Nên dù người đàn bà kia có vẻ man rợ và nguy
hiểm đến đâu, ông cũng không ngăn nổi thán phục khi biết mụ đã chống trả lại với
tất cả ba tu sĩ để có thể tự do nhìn ngắm khu vườn theo ý muốn của mụ. Ông đến
gần mụ và nhẹ giọng hỏi xem cái vườn kia có làm cho mụ thích thú không. Mụ vợ
tên cướp vội quay lại, vì mụ đang đón chờ một sự phục kích hay tấn công bất thần,
nhưng khi thấy những sợi tóc bạc trắng và cái lưng còng của một ông già thì mụ
bình tĩnh trả lời:
-
Thoạt tiên tôi có cảm tưởng chưa hề thấy một ngôi vườn nào đẹp bằng. Nhưng giờ
đây, tôi nhận thấy ngôi vườn này còn thua một ngôi vườn khác… mà tôi đã từng biết.
Viện
trưởng Hâng chắc chắn đang chờ đợi một câu trả lời khác. Nên khi nghe mụ vợ tên
cướp bảo đã thấy một thiêng đàng khác xinh đẹp hơn thiên đàng của ông thì hai
má nhăn nheo của ông bỗng ửng ửng hồng.
Sư
huynh giúp việc đứng cạnh đó vội chỉnh ngay mụ vợ tên cướp vì sợ mụ sẽ đi quá
xa.
-
Người đứng đây, sư huynh bảo, chính là viện trưởng Hâng. Người đã phải rất nhiều
kiên nhẫn và rất nhiều công phu mới có thể gom góp tất cả những cây cỏ lạ từ khắp
xa gần đem về trồng trong vườn này. Tất cả chúng tôi đều biết, trong khắp xứ
Sca-ni, không có một ngôi vườn nào phong phú hơn ngôi vườn của người. Thế mà mụ,
suốt năm sống trên rừng già, lại dám đánh giá nhẹ công trình của người, thật
không đúng một chút nào!
-
Tôi không hề muốn tự phong mình làm quan tòa đối với người cũng như đối với
chú, vợ tên cướp trả lời. Tôi chỉ nói nếu các người thấy được thiên đàng mà tôi
đang nghĩ đến, các người sẽ nhổ tất cả những hoa trong vườn này, và các người sẽ
vứt tất cả như vứt cỏ lùng vậy.
Nhưng
người phụ vườn vẫn tự đắc với bông hoa trong vườn không kém gì viện trưởng
Hâng, và khi nghe những lời kia thì bắt đầu cười ngạo nghễ.
-
Tôi hiểu mà, sư huynh tiếp, mụ nói như thể chỉ cốt ý trêu chúng tôi thôi. Tôi
thì rất thích được xem cái vườn xinh xắn mụ đã tạo lập giữa những cây đỗ tùng
và những cây thông rừng Gô-ing. Tôi dám thề, trên sự cứu rỗi linh hồn tôi, là từ
trước tới nay mụ chưa hề bao giờ vào một ngôi vườn nào cả.
Mụ
vợ tên cướp đỏ gấc lên vì giận dữ khi thấy người ta dám bỉ ổi nghi mụ nói dối
và thét to lên:
-
Có thể là cho đến ngày hôm nay, tôi chưa hề vào một ngôi vườn nào. Nhưng các
người, những kẻ tu hành, các người, những con người thánh thiện, các người ít
nhất phải biết rằng cứ mỗi một đêm Giáng sinh là khu rừng Gô-ing rộng lớn đã biến
thành một thiên đàng thật sự để chào mừng giờ ra đời của Chúa chúng ta đấy chứ!
Chúng tôi, những kẻ sống trong rừng, chúng tôi đã thấy điều đó mỗi năm. Và
trong khu vườn kia, tôi thấy có những cây cỏ rất đỗi huy hoàng tráng lệ đến nỗi
tôi không dám đưa tay ra để bẻ bất cứ một cành lá nào.
Sư
huynh giúp việc còn muốn tiếp tục trả lời. Nhưng viện trưởng Hâng ra hiệu bảo
im. Bởi vì, từ thuở nhỏ, ông đã từng nghe đồn rằng mỗi đêm Giáng sinh, rừng già
đã tự khoác lấy cho mình những bộ áo dạ hội lộng lẫy khác thường. Thường ngày,
ông cũng muốn được nhìn tận mắt phép mầu ấy, nhưng chưa hề bao giờ có dịp. Vì
thế ông bắt đầu năn nỉ khẩn cầu mụ vợ tên cướp cho ông được làm người khách
trong hang đá, một đêm Giáng sinh. Nếu mụ nhận lời, mụ chỉ cần cho một trong những
đứa bé đến để chỉ đường cho ông. Ông sẽ một mình đi ngựa đến tận nơi và sẽ
không bao giờ làm gì để phản bội. Trái lại, ông sẽ trọng thưởng theo khả năng của
ông.
Mụ
vợ tên cướp ban đầu không đồng ý, bởi vì mụ nghĩ đến tên cướp, chồng mụ, và đến
tai vạ chồng mụ phải gánh chịu sau này vì cuộc viếng thăm hang đá của viện trưởng
Hâng. Nhưng lòng muốn chỉ cho người tu hành biết cái vườn mụ từng mục kích kia
là xinh đẹp hơn cái vườn của tu viện đã làm mụ thắng được sự lo sợ. Mụ nhận lời.
-
Ông chỉ đem theo một người bạn đường thôi, mụ nói. Và ông sẽ không giăng bẫy
cũng sẽ không mai phục, để xứng danh nghĩa ông là người thánh thiện vậy.
Viện
trưởng Hâng hứa giữ lời, và thế là mụ vợ tên cướp ra đi. Nhưng viện trưởng Hâng
căn dặn sư huynh giúp việc không được tiết lộ cho bất cứ ai sự giao hẹn vừa rồi.
Ông sợ những tu sĩ khác biết được dự định của ông, sẽ không chịu để cho ông, một
ông già tuổi tác như thế, đi tới hang đá của những kẻ cướp.
Riêng
ông, ông tự hứa chắc sẽ không tiết lộ chương trình cho bất cứ kẻ nào.
Nhưng
bỗng đâu đức tổng giám mục Ab-sa-lông xứ Luan đến Ô-vêc và nghỉ lại đó một đêm.
Khi viện trưởng Hâng chỉ cho khách xem vườn hoa của mình thì hình ảnh mụ vợ tên
cướp trở lại trong đầu óc ông. Và sư huynh giúp việc, làm việc ở đấy, đã nghe
viện trưởng kể lại cho giám mục trường hợp tên cướp sống cấm cố trong rừng già
đã bao năm rồi. Sư huynh còn nghe viện trưởng xin giùm cho tên cướp một lá thư
ân xá để tên này có thể trở về sống cuộc đời lương thiện giữa những con người
khác.
Nếu
mọi việc cứ tiếp tục như bây giờ đây, viện trưởng Hâng nói, những đứa bé ấy lớn
lên sẽ trở thành những tên gian ác còn nguy hiểm hơn là cha chúng nó và, chẳng
bao lâu, đức giám mục sẽ phải đối phó lại với tất cả một đoàn trộm cướp trên rừng
sâu đó.
Đức
giám mục Ab-sa-lông trả lời dù thế nào ngài cũng không thể chấp nhận để tên cướp
tội ác trên rừng già ấy về sống chung với những người lương thiện ở đồng bằng
được. Cứ để nó sống trên rừng già ấy vẫn là điều tốt cho tất cả mọi người.
Viện
trưởng Hâng đang lúc say sưa với ý nghĩ của mình, bắt đầu kể lại cho đức giám mục
nghe lịch sử khu rừng già Gô-ing, cứ mỗi năm, lại một lần khoác những chiếc áo
lộng lẫy của đêm Giáng sinh.
-
Nếu những tên cướp đó không đến nỗi quá khốn nạn để sự huy hoàng của Chúa còn
có thể hiện ra trước mắt chúng, viện trưởng tiếp, thì những tên cướp ấy có lẽ
cũng không đến nỗi quá gian ác để không còn xứng đáng lòng khoan dung của loài
người.
Nhưng
đức giám mục đã biết cách trả lời viện trưởng Hâng.
- Tôi có thể hứa với ông một điều, ngài vừa nói vừa mỉm cười. Bất luận ngày nào, khi ông gửi đến cho tôi một cái hoa của vườn Giáng sinh ở Gô-ing, tôi sẽ gửi đến ông một lá thư ân xá cho tất cả những kẻ bị luật pháp cấm giữ nhưng đã được ông đứng ra để xin tội cho chúng.
Sư
huynh giúp việc hiểu đức giám mục cũng không tin gì hơn chú về câu chuyện mụ vợ
tên cướp đã kể, nhưng viện trưởng Hâng đã không thấy điều đó, ông cám ơn
Ab-sa-lông về lời hứa hẹn đầy tốt đẹp và nói thêm rằng ông sẽ không quên gửi đến
ngài cái hoa ngài đã dặn ấy.
* * *
Viện
trưởng Hâng thực hiện dự định của mình, và đến ngày Giáng sinh tiếp theo, ông
không ngồi nhà tại Ô-vêc mà đang trên đường dẫn vào khu rừng già Gô-ing. Một
trong những đứa trẻ man rợ, con mụ vợ tên cướp, chạy phía trước ông, và ông chỉ
đem theo một người bạn đồng hành, đó là sư huynh giúp việc. Chính người trước
kia từng gặp mụ vợ tên cướp trong vườn tu viện.
Viện
trưởng Hâng đã ao ước rất nhiều được thực hiện cuộc du hành đó, và giờ đây thì
ông rất sung sướng, cuộc du hành đó đã đến rồi. Nhưng đối với sư huynh giúp việc,
người cùng đi với ông, thì lại khác hẳn. Chú rất mến viện trưởng Hâng trong bản
tâm, chú không muốn một ai khác đi theo nhà tu hành và chăm sóc cho người,
nhưng chú không hề tin sẽ thấy được cái vườn đêm Giáng sinh. Chú nghĩ tất cả điều
đó chỉ là quỷ kế mà mụ vợ tên cướp đã giảo quyệt bày ra để viện trưởng Hâng phải
lọt vào tay tên cướp chồng mụ đó thôi.
Trên
đường về phương Bắc, hướng khu rừng già, viện trưởng Hâng trông thấy đâu đâu
người ta cũng đang sửa soạn để cử hành lễ Giáng sinh. Trong mỗi nông trại, người
ta đốt lửa nơi giặt quần áo để đun nước tắm xế. Người ta chuyền rất nhiều bánh
mì và thịt từ trong những tủ để thức ăn ra để mang vào nhà, và lôi những bó rơm
to tướng từ các vựa ra để đem trải trên sàn nhà.
Đi
qua trước những nhà thờ nhỏ trong làng, hai thầy trò nhìn thấy các vị mục sư và
các người phụ thủ đang treo những bức sáo đẹp nhất và khi đến con đường dẫn đến
tu viện Bôs-jo, ông thấy những người nghèo nơi này đang trên đường trở về nhà,
mang theo rất nhiều bánh mì lớn và nhiều cây đèn sáp dài mà người ta phân phát ở
cửa tu viện.
Khi
viện trưởng Hâng thấy tất cả những sự sửa soạn ấy thì lòng hối hả của ông lại
tăng lên bội phần. Ông đang nghĩ đến một cái lễ đang chờ đợi ông, cái lễ vĩ đại
hơn tất cả những cái lễ do bất cứ một nhân vật nào khác sẽ cử hành.
Nhưng
sư huynh giúp việc phàn nàn than thở khi nhận thấy không có một nông trại nhỏ đến
mức nào mà người ta lại không lo chuẩn bị để đón mừng lễ Giáng sinh. Mỗi bước,
chú mỗi thêm lo ngại và khuyên viện trưởng Hâng nên trở về và đừng tự ý mình để
rơi vào bàn tay những kẻ cướp.
Viện
trưởng Hâng cứ tiếp tục đi, không để ý đến những lời than phiền kia. Ông bỏ lại
sau lưng tất cả cánh đồng bằng và đi đến giới hạn hoang dại và quạnh quẽ của
khu rừng già rộng lớn. Con đường dần dần càng trở nên khó đi. Nó chỉ còn là một
lối đi nhỏ hẹp, tràn đầy sỏi đá và lởm chởm những gai thông nhọn. Không có cầu,
cũng không có phà nhỏ nào để giúp người bộ hành vượt qua sông, qua suối. Càng
đi sâu thì càng lạnh và chẳng bao lâu đã đến một miền đất lợp đầy cả tuyết.
Thật
là một cuộc du hành dài dẳng và khó nhọc. Họ đi sâu vào những lối hẻm ngang
thăm thẳm, đất cứng và trơn trợt; họ vượt qua những truông, những đồng lầy, họ
băng qua những lùm cây rậm và leo qua những thân cây ngả nằm vì gió vật. Đúng
lúc ngày đã tàn, đứa bé con tên cướp dẫn họ tới một cánh đồng cỏ bao bọc bởi những
cây cao lớn trơ trụi và những cây thông với những cành lá nhọn của nó. Phía sau
đồng cỏ là một tảng đá lớn, và chính trong tảng đá đó, người ta nhìn thấy một
cái cửa làm bằng những tấm ván rất dày.
Viện
trưởng Hâng hiểu đã đến đích và bước xuống ngựa. Thằng bé đã đến mở cánh cửa nặng
nề. Ông nhìn vào bên trong, một hang đá tồi tàn đục ngang trong lòng một tảng
đá lớn, sườn đá lộ ra, trơ trụi. Mụ vợ tên cướp ngồi bên một đống củi đang cháy
bùng lên, ở giữa hang đá. Dọc theo hai bên vách, có những cái chõng làm bằng
que cây nhỏ và rong rêu, và trên một cái chõng ấy, tên cướp đang nằm ngủ.
-
Vào đi, các ông ngoài kia, mụ vợ tên cướp nói to lên và không đứng dậy. Và các
ông hãy dắt những con ngựa cùng vào nhà để đêm lạnh khỏi làm chúng nó sinh bệnh.
Viện
trưởng Hâng mạnh dạn bước vào và sư huynh giúp việc cũng bước theo. Gian nhà có
vẻ nghèo nàn và trống rỗng và không có một chút gì để sửa soạn cử hành lễ Giáng
sinh cả. Mụ vợ tên cướp không sửa soạn bia hay bánh, mụ cũng không quét dọn,
cũng không lau chùi gì cả. Những đứa nhỏ nằm quây quần dưới đất, quanh một cái
nồi lớn, và thức ăn đựng trong nồi này thật ra chẳng có gì: cháo súp nước lã.
Mụ
vợ tên cướp nói một giọng đầy uy lực và lưu loát như vợ một nông dân giàu.
-
Ông hãy ngồi xuống đây, ngồi bên lửa đó, viện trưởng Hâng, mụ nói thế, và hãy
ăn đi nếu ông có mang theo gì để ăn, vì tôi tưởng món ăn của tôi sửa soạn ở
đây, trong rừng này, ông không tài nào nếm được. Và nếu ông đã mệt vì đường dài,
ông có thể nằm nghỉ trên một cái chõng kia. Ông không cần sợ sẽ ngủ quá lâu.
Tôi thức ở đây, bên bếp lửa này, và sẽ kêu ông dậy để ông có thể nhìn thấy phép
lạ mà ông ước đến xem.
Viện
trưởng Hâng vâng lời mụ vợ tên cướp, lấy thức ăn ra. Nhưng cuộc lữ hành đã làm
ông mỏi mệt đến nỗi mới ăn sơ được vài miếng ông đã vội nằm dài ra trên chõng
và ngủ thiếp đi.
Sư
huynh giúp việc cũng được mời đến nghỉ trên một cái chõng, nhưng chú không dám
ngủ, nghĩ thầm chú cần phải thức để canh chừng tên cướp và không cho tên cướp
trỗi dậy để giết viện trưởng Hâng. Tuy nhiên dần dần giấc ngủ đã thắng và chú
cũng nằm xuống thiếp đi. Khi tỉnh dậy, chú thấy viện trưởng Hâng đã rời chiếc
chõng để đến ngồi bên ánh lửa và đang trò chuyện với mụ vợ tên cướp. Con người
bị pháp luật truy nã, chính tên cướp, cũng đến ngồi bên ngọn lửa. Đó là một người
đàn ông cao lớn, gầy gò, có vẻ nặng nề, tiều tụy. Hắn ngồi quay lưng lại phía
viện trưởng Hâng, tỏ ra không muốn nghe đến câu chuyện đang nói.
Viện
trưởng Hâng thuật lại tất cả những cuộc chuẩn bị về lễ Giáng sinh mà ông vừa thấy
trên đường đi và ông nhắc cho mụ vợ tên cướp tất cả những lễ hội, những vũ điệu
đêm Giáng sinh mà chắc mụ đã từng dự trong thời son trẻ, khi còn sống giữa những
con người hiền lành.
Những
đứa con của mụ làm tôi thương hại, viện trưởng Hâng nói. Chúng nó sẽ không bao
giờ có thể ngang nhiên chạy rong ngoài đường phố hay nô đùa trên những đống rơm
đêm Giáng sinh…
Lúc
đầu, mụ vợ tên cướp chỉ bằng lòng với những câu trả lời ngắn và khô khan. Nhưng
dần dần mụ trở nên tin cẩn và lắng nghe với tất cả sự chú ý. Bất thình lình,
tên cướp quay lại phía viện trưởng Hâng, nắm chặt lấy nắm tay, giơ lên trước mặt
ông:
-
Lão tu hành khốn kiếp này, có phải lão đến đây dùng lời lẽ cướp mất vợ con ta
hay sao? Lão biết rằng ta bị pháp luật cấm ngăn và ta không được phép ra khỏi
khu rừng này chứ?
Viện
trưởng Hâng nhìn thẳng vào hai mắt tên cướp.
-
Ý định của ta là làm sao có được một lá thư ân xá của đức tổng giám mục, ông
nói.
Nghe
những lời ấy, tên cướp và mụ vợ bắt đầu cười ồ cả lên. Chúng nó quá biết một
tên cướp sống trên rừng già như thế có thể hy vọng những ân huệ gì nơi giám mục
Ab-sa-lông.
-
Được lắm, nếu tôi nhận được thư ân xá của Ab-sa-lông, tên cướp nói, tôi sẽ
không bao giờ còn ăn trộm bất cứ một cái gì trị giá bằng một con ngỗng, tôi hứa
với ông thế.
Sư
huynh giúp việc thấy khó chịu khi những tên cướp như thế lại dám cười đùa viện
trưởng Hâng; nhưng ông này, thì có vẻ hài lòng lắm. Sư huynh giúp việc chưa bao
giờ thấy ở Ô-vêc, ông lại hiền hòa dễ dãi đến mức thế đối với các tu sĩ, như
đang thấy ông tại đây, giữa những con người cướp giật man rợ.
Thình
lình mụ vợ tên cướp đứng dậy.
-
À, ông đã nói đến làm cho chúng tôi quên mất khu rừng già, mụ bảo. Giờ này người
ta có thể nghe tận nơi đây những tiếng chuông đêm Giáng sinh rồi.
Mụ
vừa dứt lời thì tất cả mọi người đứng dậy và bước ra khỏi cửa. Nhưng trong khu
rừng, họ chỉ gặp đêm đen tối với mùa đông sương mù. Người ta thoảng phân biệt
được những chuông reo theo ngọn gió phương Nam từ xa đưa lại và ngoài ra không
còn gì nữa.
Viện
trưởng Hâng tự nhủ: làm thế nào mà những tiếng chuông kia lại có thể sẽ đánh thức
khu rừng già chết trơ thế này?
Vì
giờ đây, bị vây phủ bởi những bóng tối của đêm đông, ông càng thấy rõ hơn bao
giờ hết là khu rừng già kia khó thể biến đổi để thành một khu vườn được.
Nhưng
khi những tiếng chuông đã rung lên trong khoảnh khắc thì một luồng ánh sáng đột
nhiên hiện đến, xuyên qua khu rừng. Tiếp theo đó, đêm tối dày đặc như trước trở
lại, nhưng một luồng ánh sáng mới lại phát hiện. Ánh sáng chống trả không khác
nào một đám sa mù đang lóe chớp giữa những thân cây đen. Và nó biến dần đêm tối
thành một bình minh vừa thức tỉnh.
Thế
rồi viện trưởng Hâng thấy tuyết biến mất trên mặt đất tưởng như có người vừa
đem tấm thảm cất đi, và mặt đất bắt đầu xanh tươi. Những cây đuôi chồn mọc lên
xoắn lại như những pháp trượng của giám mục. Cây thạch thảo của đồi núi và cây
sim hoang dại của đầm lầy tự choàng cho mình những cái áo màu xanh sáng rực rỡ.
Những chùm rêu nhiều dần và mọc cao lên, và những bông hoa đầu xuân nảy ra những
búp non vạm vỡ vạch nhiều màu sắc.
Quả
tim của viện trưởng Hâng bắt đầu đập mạnh khi ông trông thấy những dấu hiệu đầu
tiên thức giấc của rừng già.
Ông
thầm nghĩ: có thể nào một người như tôi, một người đã già thế này mà còn cái diễm
phúc được thấy phép mầu như thế?
Và
những hạt lệ long lanh trên đôi mắt.
Có
lúc đêm dày đặc quá đến nỗi làm ông sợ đêm tối sẽ cuốn mất cảnh tượng ông vừa bắt
gặp.
Nhưng
phút chốc, một đợt sóng ánh sáng khác lại vụt đến. Đợt sống này đem theo tiếng
thì thầm của những ngọn suối và tiếng gào thét củ những thác ngàn ào đổ dữ dội.
Thế rồi những lá non mọc ra rất nhanh khiến cho người ta tưởng đó là một đàn bướm
xanh vừa đáp đậu trên những cành cây. Thực ra không chỉ những cây lớn và những
cây nhỏ đang đua nhau thức dậy. Những con chim tước mỏ tréo bắt đầu nhảy nhót
trên cành. Những con gõ kiến bắt đầu gõ nhịp trên những thân cây, làm tung tóe
những mảnh vỏ cây ra quanh nó. Một đàn sáo xanh, trên đường bay về phương Bắc,
đáp xuống trên những đám lá để nghỉ cánh. Đó là những con sáo xanh tuyệt đẹp. Ở
đầu mút mỗi lông của chúng, một màu đỏ rực cháy sáng lên, và khi những con chim
đó cử động thì chúng nó nhấp nháy sáng như những viên ngọc quý.
Rồi
thì như cũ, trời đất lại tối hơn trước, nhưng không bao lâu một đợt sóng ánh
sáng khác lại hiện ra. Một luồng gió ấm nhẹ nhẹ thổi đến và đem gieo trên khắp
cánh đồng nhỏ của khu rừng già tất cả những hạt giống nhỏ từ phương Nam do những
đàn chim, những chuyến tàu và những ngọn gió đã mang lại, những hạt giống mà vì
thời tiết mùa đông gay gắt không thể mọc lên ở những nơi khác, thì ngay khi vừa
chạm đến mảnh đất này, đã bắt rễ đâm chồi tức khắc.
Khi
đợt sóng ánh sáng tiếp theo hiện đến, những cây nham lê, cây việt quất đua nhau
nở hoa. Những con vịt trời rồi những con hạc bay liệng la ó trên không, những
con chim mai hoa bắt đầu làm tổ và những con sóc bắt đầu đùa giỡn trên cành.
Những
sự kiện giờ đây tiếp tục nhau một cách quá mau chóng đến nỗi viện trưởng Hâng
không còn đủ thì giờ để nhận thấy tất cả sự vị đại của phép lạ đang dần dần trải
rộng ra trước mắt. Ông lặng nhìn với tất cả sự chú ý của giác quan. Đợt sóng
ánh sáng kế tiếp đem đến hương thơm của những mảnh đất vừa mới được cày trở. Ở
xa xa, những cô chăn chiên réo gọi những con bò cái và những tiếng lạc nhỏ của
những con cừu rung lên. Những cây tùng và mã vĩ tùng mang đầy những quả đỏ rất
cứng đến nỗi những cây đó có vẻ như khoác những cái áo choàng đỏ rực. Những quả
của những cây đỗ tùng đổi màu sắc từng giờ từng phút một. Bông hoa nở ra bao
trùm cả mặt đất một tấm thảm trắng xanh và vàng.
Viện
trưởng Hâng cúi mình và hái một hoa dâu tây. Trong khi ông đứng thẳng lên thì
quả dâu đã chín. Một con chồn cái từ hang đi ra dẫn theo một đàn con nhỏ toàn
những cặp giò đen. Con chồn cái này đến gần mụ vợ tên cướp cào nhẹ vào nơi biên
cáy; mụ vợ tên cướp nghiêng mình xuống và khen ngợi con chồn về đàn con của
nó. Con chim mèo lớn vừa bắt đầu cuộc săn đêm đã trở về ổ, khiếp sợ trước ánh
sáng, tìm một hốc tối để đậu ngủ. Con tu hú hót lên và con tu hú mái miệng ngậm
chặt trứng nó, đảo qua đảo lại gần tổ những con chim nhỏ. Những đứa bé con mụ vợ
tên cướp rú lên vui mừng. Chúng nó thỏa thích ăn những quả lớn như những quả
thông lủng lẳng trên lùm cây nhỏ. Một trong bọn đùa giỡn với một đàn thỏ con; một
đứa khác đang chạy đua với những con quạ con vừa lìa tổ trong lúc lông cánh
chưa đầy đủ; đứa thứ ba bắt một con rắn lục quàng vào cổ và cánh tay nó. Tên cướp
thì đang phiêu lưu vào giữa bãi lầy để ăn những trái dâu dại. Khi ngẩng đầu
lên, nó chợt thấy một con vật lớn đen thui thui đi bên cạnh. Tên cướp liền bẻ một
cành liễu và đập vào mồm con gấu.
-
Hãy đi theo đường mày, tên cướp la lên, chùm này là của tao.
Con
gấu tránh cú đánh và ngoan ngoãn tẻ sang nẻo khác.
Những
đợt sóng nắng và ánh sáng kế tiếp nhau không ngừng và người ta nghe rộn những
tiếng vịt đang rúc nước. Phấn vàng của cây lõa mạch bay lềnh bềnh trong không
khí. Những con bướm bay đến to lớn giống như những bông huệ tây biết bay. Tổ
ong nằm trong bộng cây sồi tràn đầy cả, và mật đang chảy ra ngoài dọc theo thân
cây. Giờ đây những bông hoa do những hạt giống từ các xứ xa lạ mang đến cùng
thi nhau đua nở. Những cây hồng lộng lẫy bò lên những tảng đá bầu bạn với những
cây mâm xôi. Ngoài đồng cỏ, những đóa hoa rực rỡ nở to như những mặt người. Viện
trưởng Hâng sực nhớ đến cái hoa mà ông đã hứa với giám mục Ab-sa-lông, nhưng
ông còn do dự chưa hái. Vì hoa này nối tiếp hoa khác, càng lúc càng thêm kỳ diệu
đẹp hơn, và ông thì muốn chọn lấy cái hoa nào đẹp nhất.
Đợt
sóng này tiếp với đợt sóng khác và giờ đây không khí tràn đầy ánh sáng, nhấp
nháy lên. Tất cả nỗi vui mừng, tất cả sự huy hoàng, tất cả hạnh phúc của mùa hè
đang mỉm cười khắp nẻo quanh viện trưởng Hâng. Thật không làm sao tưởng tượng mặt
đất lại có thể dâng một niềm vui vĩ đại hơn niềm vui đang tỏa ngời vây quanh lấy
ông lúc bấy giờ và ông tự nhủ:
-
Giờ đây, tôi không còn dám biết đợt sóng kế tiếp có thể đem đến những gì huy
hoàng rực rỡ hơn nữa.
Nhưng
ánh sáng cứ dồn dập tràn đến và giờ đây hình như nó mang lại một cái gì từ một
miền xa xôi vô tận. Viện trưởng Hâng cảm thấy lạc giữa một bầu khí quyển siêu
nhiên và khi đã được hưởng tất cả niềm vui trên cõi đời này, thì ông lại chờ đợi,
trong run rẩy, sự phát hiện ra trước mắt niềm vui thánh thiện của cõi trời.
Viện
trưởng Hâng chợt thấy tất cả trở nên yên lặng. Những con chim không hót nữa, những
con chồn con không nô đùa nữa và những bông hoa đã ngừng lớn. nguồn chân phúc
đã dâng cao đến mức độ mà tim muốn ngừng đập, mắt vô tình đã để những hạt lệ
rơi và linh hồn nhẹ hẳn lên, như muốn bay về với vô cùng vô tận. Từ nẻo xa những
tiếng đàn thất huyền đưa lại, và một điệu hát siêu phàm thoảng thoảng tựa hồ những
lời thì thầm muôn vàn êm dịu.
Viện
trưởng Hâng chắp hai tay quỳ xuống. Cả khuôn mặt đã biến đổi vì thấm nhuần ân
phúc. Không bao giờ ông dám hy vọng ngay ở cõi đời này mà lại được thụ hưởng niềm
vui của cõi trời và được nghe các thiên thần đang hòa lên những bản thánh ca
đêm Giáng sinh.
Nhưng
bên cạnh viện trưởng Hâng, vẫn có sư huynh giúp việc đi theo. Những tư tưởng u
ám quay cuồng trong đầu óc chú ta.
-
Đó không thể là phép lạ đích thực, chú tự nhủ, phép lạ đâu lại có thể hiện đến
ngay cho cả những tên tội ác khốn nạn! Tất cả những thức này không thể là công
trình của Thượng đế mà phải có cội nguồn trong tội ác. Phép lạ hiện ra cho
chúng ta đây là do mánh khóe giảo hoạt của ma quỷ. Đó là quyền lực của kẻ thù
nó làm mê hoặc chúng ta và bắt chúng ta phải trông thấy những cái thực ra không
có.
Ở
xa, nghe ngân vang cung bậc những cây đàn thất huyền và giọng hát du dương của
những thiên thần, nhưng sư huynh giúp việc cứ tin chắc đó là những ác quỷ của hỏa
ngục đang tiến đến gần.
-
Chúng nó muốn cám dỗ, muốn quyến rũ chúng ta, chú than thầm, chắc hẳn chúng ta
không thể nào yên ổn trốn thoát chốn này được. Chúng ta sẽ mê muội bởi quỷ thuật
và sẽ bị bán đứng vào hỏa ngục.
Giờ
đây tiếng đồng ca của những thiên thần đã gần đến nỗi viện trưởng Hâng có thể
thấy được những sự xuất hiện rực rỡ chói sáng giữa những cây rừng. Và sư huynh
giúp việc cũng thấy như thế, nhưng chú chỉ bận lo nguyền rủa những sự ma quái đã hiện ra ngay trong
đêm Đấng Cứu thế ra đời. Giờ phút này nhất định đã được chọn để càng có thể dễ
dàng phù thuật mê hoặc những kiếp người khốn nạn đáng thương.
Trong
suốt thời gian ấy, những com chim vẫn bay chập chờn quanh đầu viện trưởng Hâng
và ông có thể lấy tay bắt chúng được. Trái lại, thú vật đều e ngại sư huynh
giúp việc. Không một con chim nào đến đậu trên vai chú, không một con rắn lục
nào đến đùa dưới chân chú. Nhưng kìa xem một con chim gầm ghì nhỏ. Khi thấy các
thiên thần đến gần, nó lấy hết can đảm, đáp xuống trên vai sư huynh giúp việc
và dùng đầu nó để vuốt ve lên má chú ta, thế là chú có cảm tưởng chính kẻ thù
ghê tởm đã sờ vào người chú để cám dỗ và quyến rũ. Chú liền đánh mạnh vào con
chim gầm ghì và la lên một giọng dữ dội làm rung chuyển cả khu rừng.
-
Hãy trở về hỏa ngục, quê hương của mày.
Đúng
vào giây phút ấy, những thiên thần đã đến rất gần đến nỗi viện trưởng Hâng nghe
tiếng xào xạc của những cặp cánh lớn và ông ta đang nghiêng mình gần sát đất để
vái chào. Nhưng nghe giọng nguyền rủa của sư huynh giúp việc vang lên thì điệu
hát thiên thần im bặt và những người khách thiêng kia vội quay lưng lại để lánh
xa. Và như thế, ánh sáng và sức nóng hiền dịu trốn chạy trước sự ghê tởm không
tả được của giá lạnh và đen tối của một quả tim người. Đêm tối tràn ngập mặt đất
như một tấm màn dày đặc, giá lạnh trở lại, những cây cỏ trên mặt đất khô héo,
những thú vật chạy trốn, tiếng reo gầm của những thác nước ngừng lại, những lá
lìa cành nối nhau chảy dài xuống như mưa.
Viện
trưởng Hâng, lúc nãy cảm thấy tâm hồn mình đang nở ra chan hòa chân phúc thì giờ
đây co thắt lại trong một nỗi đau đớn không thể vượt nổi.
“Không
bao giờ, ông nghĩ, tôi lại có thể sống được sau sự việc vừa xảy ra! Làm sao mà
những thiên thần của cõi trời đang đến gần như thế bỗng phải trốn chạy! Làm sao
mà khi các vị muốn hát cho tôi nghe những thánh ca đêm Giáng sinh lại phải bị
xua đuổi như thế!”.
Chính
ngay lúc đó ông lại nhớ cái hoa mà ông đã hứa với giám mục Ab-sa-lông: ông cúi
xuống đất và bắt đầu mò mẫm giữa những đám lá, bất chấp tất cả, để gắng tìm một
cái hoa trong giây phút cuối cùng. Nhưng ông nghe đất tê buốt dưới năm đầu ngón
tay, và tuyết trắng tràn ra khắp mặt đất. Thế là quả tim ông bị xé ra từng mảnh
bởi một nỗi đau đớn càng khốc liệt hơn. Ông không thể nào còn đứng dậy được nữa,
ông té xuống và nằm soài người trên mặt đất.
Nương
theo bóng tối, gia đình tên cướp và sư huynh giúp việc mò lần vào hang đá,
nhưng khi nhìn lại thì họ thấy thiếu mất viện trưởng Hâng. Họ cầm lấy những que
lửa và chạy đi tìm: họ gặp ông nằm chết trên tấm thảm tuyết trắng xóa.
Và
người sư huynh giúp việc bắt đầu khóc than kể lể. Chú đã hiểu chính chú đã giết
chết viện trưởng Hâng, vì chú đã lấy mất niềm vui mà viện trưởng đã từng mong
muốn rất mãnh liệt.
* * *
Tại
Ô-vêc, nơi người ta đem viện trưởng Hâng trở về, khi sửa soạn đặt viện trưởng
Hâng vào trong quan tài, những tu sĩ nhận thấy tay mặt ông vẫn nắm chặt một vật
gì hình như ông đã bắt được lúc sắp từ giã cõi đời. Cuối cùng, gắng mở bàn tay
ông ra, người ta thấy vật mà ông nắm rất chặt chẽ ấy chính là vài loại củ trắng
bao đầy cả rêu và lá, chắc ông đã nhổ từ đất lên. Sư huynh giúp việc, người đã
cùng đi với viện trưởng Hâng, thấy thế bèn nhặt những củ ấy đem ra trồng ngoài
vườn.
Chú
ta chăm sóc những củ này suốt cả năm, hy vọng nó sẽ trổ hoa, nhưng suốt mùa
xuân, mùa hè và mùa thu, chú chờ đợi vô ích. Lúc mùa đông sang, thời kỳ mà tất
cả hoa lá đều tàn rụi thì chú thôi không còn quan tâm chăm sóc nữa.
Nhưng
đêm chuẩn bị lễ Giáng sinh, kỷ niệm của viện trưởng Hâng trở dậy mãnh liệt, chú
dạo ra vườn để tưởng nhớ đến người. Và đây, khi đi ngang qua nơi đã trồng những
củ trơ trụi ngày trước, chú thấy có những chồi xanh mọc lên vạm vỡ mang theo những
hoa đẹp cánh trắng.
Chú
gọi tất cả những tu sĩ ở Ô-vêc ra, và nhìn thấy cây hoa này đã trổ vào đêm chuẩn
bị Giáng sinh, trong lúc tất cả những cây khác đều tàn rụi, thì họ hiểu viện
trưởng Hâng thực sự đã hái hoa này trong vườn Giáng sinh tại rừng Gô-ing. Sư
huynh giúp việc đi năn nỉ xin các tu sĩ cho phép được đem vài cành hoa đó đến
cho giám mục Ab-sa-lông.
Khi
đến trước mặt giám mục Ab-sa-lông, sư huynh giúp việc đưa những cành hoa này
cho ông và nói:
-
Đây là của viện trưởng Hâng gửi đến ngài. Chính là những hoa ông ta đã hứa hái
cho ngài tại vườn Giáng sinh rừng Gô-ing.
Trông
thấy những hoa kia, những hoa đã mọc ngay trên đất giữa mùa đông giá lạnh và
nghe những lời nói ấy, giám mục Ab-sa-lông bỗng tái người không khác nào ông
đang đối diện một hồn ma. Ông lặng người trong chốc lát, rồi nói:
-
Viện trưởng Hâng đã giữ đúng lời hứa, tôi sẽ giữ lời hứa của tôi.
Và
ông cho thảo một lá thư ân xá cho tên cướp từng bị cấm đoán phải sống trong rừng
già từ thuở thanh niên đến giờ.
Ông
đưa thư cho sư huynh giúp việc và chú ta lên đường vào rừng, tìm hang đá của
tên cướp. Khi chú đến nơi vào ngày Giáng sinh, thì tên cướp đã đến đón chú với
một lưỡi búa trên tay.
-
Tao sẽ hạ tất cả bọn bay, bọn tu sĩ chúng bay, dù có đông đến mấy cũng mặc, tên
cướp nói. Bởi vì nhất định tại tội lỗi chúng bay mà khu rừng già năm nay không
còn khoác lại những bộ ái lộng lẫy đêm Giáng sinh nữa.
-
Chính tại lỗi của tôi mà thôi, sư huynh giúp việc trả lời, và tôi rất muốn chết
đi để đền tội đó; nhưng trước khi tôi chết, tôi phải đem đến cho anh lá thư của
viện trưởng Hâng.
Và
chú lấy cái thư của giám mục ra và kể lại cho tên cướp biết rằng hắn ta đã được
tha tội.
-
Từ nay, anh và các con anh, tất cả sẽ được nô đùa trên đống rơm ngày Giáng sinh
và sẽ cử hành lễ Giáng sinh giữa những con người theo ý muốn của viện trưởng
Hâng, chú nói.
Tên
cướp tái mặt và câm lặng, nhưng vợ hắn đã thay hắn trả lời:
-
Viện trưởng Hâng đã giữ lời hứa của ngài, thế thì tên cướp cũng sẽ giữ lời hứa
của hắn.
Tên
cướp và vợ hắn từ biệt hang đá, và sư huynh giúp việc lại vào hang đá và ở lại
rừng già từ đó mãi về sau, sống trong sự cầu nguyện không ngừng để mong ơn trên
tha thứ cho cái tội sắt đá của tâm hồn.
Nhưng
khu rừng già Gô-ing không bao giờ lại còn cử hành lễ sinh nhật của Đấng Cứu thế
nữa, và tất cả sự huy hoàng rực rỡ của khu rừng ngày trước nay chỉ còn lại một
cây hoa mà viện trưởng Hâng đã hái được thôi. Người ta gọi hoa đó là hoa hồng
trắng đêm Giáng sinh và mỗi năm, cứ đến mùa Giáng sinh thì cây hoa ấy lại vạch
đất đưa lên những cành xanh và những hoa trắng tưởng chừng như nó không bao giờ
có thể quên xưa kia nó đã từng sinh trưởng trong khu rừng rộng lớn của đêm
Giáng sinh.
0 Comment: