Pleiku nhìn từ đồn điền chè Bàu Cạn- ST
Phố núi và bạn bè... Chút gì để nhớ!
Pleiku nhìn từ đồn điền chè Bàu Cạn
-Lê Hoàng Thụy Vũ -
Tôi không phải là nhà nghiên cứu lịch sử, không phải là người sưu tầm “đồ cổ”, cũng không sở hữu các tư liệu cũ có giá trị ...tôi chỉ ghi nhận lại đây những hình ảnh và chi tiết với mong ước lưu trử lại được những nét đặc thù của Pleiku những ngày mới phát triển vào đầu thế kỷ 20th. Xin được thắp nén hương tưởng nhớ các cụ trong bài nhắc đến tên nay đã mất!
Những năm đầu của thập kỷ 20 thế kỷ trước người Pháp đã đặt chân đến Pleiku, ban đầu là người chủ đồn điền trà Biển Hồ ( PIT, Plantation Indochinoise des Thés, người dân quen gọi là sở trà Biển Hồ, thành lập từ 1921 ) và kế đến là ông chủ sở trà Bàu Cạn ( Plantations du Ia Puch, người dân quen gọi là sở trà Bàu Cạn hoặc đồn điền Catecka, thành lập năm 1923_ có tài liệu ghi 1926 nhưng giấy tờ còn lưu lại tại Bàu Cạn là 1923). Tại cả hai sở trà này người chủ Pháp đều đã cho trồng thử nghiệm cây cà phê, mà theo nhiều người làm việc lâu năm tại các nơi này cho biết vào thời điểm mới thành lập đồn điền trà Biển Hồ có khoảng 7,5 đến 10 hecta cây cà phê và đồn điền trà Bàu Cạn đến cuối năm 1929 có khoảng 62,5 hecta cây cà phê ( 65.000 cây cà phê theo báo cáo trước đại hội đồng cổ đông năm 1930). Có lẽ do doanh thu từ cây cà phê vào lúc bấy giờ không được nhiều bằng từ cây trà nên cả hai nơi này, cho đến nay, vẫn chỉ được biết đến như là hai cơ sở chuyên trồng, sản xuất và chế biến trà.
Tôi đã có nhiều dịp vào thăm và làm việc tại cả hai công ty trà này nhưng mãi gần đây mới nghiệm ra rằng mình có thể tìm hiểu kỹ hai nơi này để hiểu thêm một số điều về Pleiku cách đây hơn 50 năm trước, chẳng hạn : ta có thể đến chùa Bửu Minh trong sở trà Biển Hồ để từ đó hiểu thêm một vài vấn đề liên quan đến tín ngưỡng dân gian của người Pleiku xưa và với khu dân cư của sở trà Bàu Cạn, ta có thể hình dung ra việc cấp điện cấp nước của Pleiku vào thời điểm những năm 50 của thế kỷ trước…
*Vài nét về đồn điền trà Bàu Cạn:
Đồn điền trà Bàu Cạn được hình thành từ năm 1923 do các ông chủ người Pháp quản lý và khai thác. Tên gọi chính thức của đồn điền này là CATECKA S.A. ( Compagnie Agricole des Thés et Cafés du Kontum Annam, société anonyme_ Công ty nông nghiệp trà và cà phê tỉnh Kontum An Nam, công ty nặc danh ). Vốn pháp định của công ty thời bấy giờ là 1.247.500 Francs do ông Choisnel làm giám đốc, tư gia của ông nằm trong nơi ngày nay là khuôn viên trường tiểu học Lê Hồng Phong, xã Bàu Cạn ( kế tục là các ông Moistini, Salvaire, Portier và Louyrette; trong đó ông Salvaire nguyên là quan tư lái máy bay nên thời đó ông chủ đồn điền Bàu Cạn đã sắm chiếc máy bay 1 người lái và đủ điều kiện để tự mình bay đi kiểm tra các đội sản xuất trong đồn điền cũng như bay về Sàigòn nghỉ cuối tuần. Nhà để chiếc máy bay này làm bằng vì kèo sắt, nay là vị trí dẫy phòng học 2 tầng của trường THCS Nguyễn Viết Xuân và sân bay nằm liền ngay cạnh hàng rào của trường cấp 2 này, trải dài theo hướng Đông_Tây thuộc thôn Đồng Tâm. Sân bay này, các cụ già đã 85 tuổi hiện đang sống ở Pleiku gọi là sân bay Gia Tường ( đây là sân bay thứ nhì của Pleiku; sau khi sân bay đầu tiên từ thời Pháp tại làng Trà Nhao, tức làng Plei Nhao hiện nay, bị bỏ không sử dụng do nằm trong khu vực “kém an ninh” ). Đặt tên thế vì sân bay này nằm trên địa bàn thôn Gia Tường (Ia Từng)_theo các cụ, trước khi có sân bay Cù Hanh năm 1963, máy bay Dakota của Hàng không Việt Nam ( Air VN ) vẫn đáp nhờ xuống đây. Mãi đến năm 1978 công ty chè Bàu Cạn mới cho trồng cây trà trên diện tích này nên gọi là trà 78 ).
Đây là một đồn điền có nhiều nét đặc thù so với các đồn điền khác: có nhà máy thủy điện từ rất sớm, có máy bay và sân bay riêng, quy hoạch khu sản xuất và khu dân cư khá hợp lý với chợ, bệnh xá, trường học, chùa và hệ thống cấp điện cấp nước tương đối hoàn chỉnh. Có tài liệu cũ đề cập đến nhà thờ, có lẽ do thói quen nên nghĩ rằng người Pháp đến lập đồn điền và khu dân cư ắt sẽ xây dựng nhà thờ, nhưng thực tế trong khu dân cư của sở trà Bàu Cạn không hề có nhà thờ, ngày nghỉ cuối tuần vào thời điểm mới thành lập các ông chủ người Pháp thường đi nhà thờ mãi tận Kontum. Còn ngôi chùa tại khu dân cư Bàu Cạn cũng rất nhỏ bé chứ không được như chùa Bửu Minh của sở trà Biển Hồ, hiện chùa Bửu Minh đang được xem là một trong 5 ngôi chùa lớn của Pleiku; theo lời giải thích của cư dân Bàu Cạn thì vì chùa Bửu Hoa này ban đầu có một sư nữ trụ trì nhưng về sau sư hoàn tục, nên chùa không được đông thiện nam tín nữ!
Đến năm 1950, đồn điền trà này đã quản lý gần 1.000 ha cây trà, 1.000 ha rừng tự nhiên và có khoảng 200 gia đình công nhân làm công ăn lương, sinh sống trong khu dân cư gọi là “village” ( làng ), các ông Cai, xếp, thầy ký ăn ở theo cụm riêng, còn người Pháp và ban giám đốc ở khu biệt thự “ Villas”.
*Nhà máy thủy điện Bàu Cạn:
Trước năm 1950, theo các cụ công nhân đến làm việc ở đồn điền Catecka từ những năm 1948, toàn bộ người dân sống trong các khu dân cư của đồn điền này còn phải thắp đèn dầu, hàng tháng căng tin của đồn điền bán cho mỗi gia đình vài lít dầu hỏa để thắp sáng. Để phục vụ dây chuyền chế biến trà, ông chủ Pháp đã sắm một vài máy phát điện nhỏ chạy bằng dầu diesel. Vì đồn điền nằm cách suối Ia Puch chỉ vài trăm mét nên người chủ Pháp đã tiến hành khảo sát địa chất thủy văn để xây dựng nhà máy thủy điện Bàu Cạn trên suối này.
Không có tài liệu về thời điểm chính xác người Pháp tiến hành công tác thăm dò khảo sát địa chất thủy văn nhưng trong báo cáo của đồn điền Ia Puch trước đại hội đồng cổ đông công ty CATECKA họp ngày 30-9-1930 ông Choisnel đã đề cập đến việc có thể khai thác nguồn thủy năng của con suối Ia Puch để cấp điện dùng sản xuất chế biến trà đồng thời thay thế các loại máy trong xưởng chế biến chạy bằng hơi nước. Khá lâu sau, bản vẽ thiết kế do công ty Jacques Bouchoux, France hoàn thành ngày 21-08-1949 ( các máy biến áp được mua về và sử dụng vào mục đích cung cấp điện cho bơm nước tưới và chế biến trà cũng được sản xuất năm 1949 ). Nhà máy này nằm trên con suối Ia Puch thuộc xã Bàu Cạn, suối này cách xa xưởng chế biến chè Bàu Cạn khoảng 800 mét (?) về hướng đông. Chủ đầu tư công trình là một người Pháp tên là Choisnel ( dân chúng gọi là ông chủ Sọt nen ), giám đốc đồn điền Ia Puch .
Việc thi công xây dựng nhà máy thủy điện được điều hành bởi kỹ sư điện người Pháp De Mabe, các cai máy ( chef mécanicien ), cai xây dựng, đa số thợ mộc, thợ nề được tuyển từ Đà Nẵng ( Tourane ) và một ít là người Bình Định, còn lại người Pháp thuê lao động đơn giản là người đồng bào thiểu số Jrai, Ba na, Sê Đăng
Suối Ia Puch ( là một nhánh của suối Ia Drang ) bắt nguồn từ phía tây nam dãy núi Hàm Rồng, chảy theo hướng Đông Bắc_Tây nam và nhập vào sông Srepok ( Xêrêpốc ) ở bên bờ phải. Nhà máy nằm trên địa bàn xã Bàu Cạn, quận Thanh An ( nay là huyện Chư Prông ) với các tọa độ địa lý như sau:
*Vị trí tuyến đập: 13º51’ 59” vĩ độ Bắc; 107º51’39” kinh độ Đông.
*Vị trí nhà máy : 13º51’39” vĩ độ Bắc; 107º51’44” kinh độ Đông
Khi thi công nhà máy, người Pháp đã dùng những trang thiết bị như: máy trộn bê tông có kích cỡ kiểu dáng như hiện nay, động cơ máy nổ 8cv ( mã lực ) chạy bằng diesel, dùng xe lu nhỏ để làm đường, máy cày bánh lốp để tời tải đất và khai hoang. Đắp đập, chặn dòng và làm kênh dẫn dòng người Pháp dùng lao động thủ công hoàn toàn. Bể áp lực, bể điều tiết theo mùa, cắt lũ, tràn sự cố .v.v..người Pháp tận dụng lợi thế của địa hình nên gần như không có sự xâm hại,hoặc tác động xấu đến hệ sinh thái và môi trường quanh vùng .
Đường ống thủy lực đường kính 800 ly được làm bằng thép đen dày 5 ly chế tạo từ một bàn cuốn ống quay bằng lao động thủ công.Điện phục vụ thi công công trình được cấp bằng máy phát điện diesel, máy hàn điện một chiều 36 volt DC-300A , kéo bằng động cơ 3 pha 13cv.
Để vận chuyển và lắp đặt thiết bị, lắp đặt đường ống người ta dùng xe cam nhông (camion) kết hợp với ba lăng, ròng rọc và cáp thép, khi cần thì dùng thêm xe ba lua ( poids lourd, xe tải lớn ); thiết bị nặng nhất là máy biến áp gần 2 tấn (1986 kg).
Bên cạnh đó, để đưa điện từ nhà máy thủy điện về xưởng chế biến trà và khu dân cư, người chủ Pháp đã xây dựng đường dây tải điện 15kV bằng các trụ bê tông vuông dài 10 mét có bậc trèo và cũng là các lỗ chịu lực, các trụ này được đúc tập trung ( có một số trụ còn mang dòng số ghi lại ngày đúc: 16-1-50 hoặc 13-11-50 ) rồi đem rải và trồng vào các hố đào sẵn, sau đó đổ bê tông móng. Nhân lực thi công tuyến dây dài 10,3 km này gồm 30 người với xe máy kéo bánh hơi hỗ trợ. Xà đỡ để lắp sứ cách điện có 2 dạng chính: xà đỡ với 3 sứ nằm ngang nhau và loại ty sứ bằng thép tròn 26 ly mạ kẽm hình chữ Z, một đầu có 2 lỗ lắp vào thân cột, đầu kia lắp sứ thủy tinh 3 tầng màu xanh, khoảng cách giữa sứ với thân trụ đạt 0,6m . Do đường dây đi qua vùng đồi núi vào mùa mưa có nhiều giông sét nên kỹ sư thiết kế đã có giải pháp chống sét đánh vào công trình điện rất hiệu quả, chính vì thế mà các thiết bị điện đến bây giờ vẫn còn hoạt động tốt. Tại nơi sử dụng, điện cấp cho thắp sáng và điện cấp cho sản xuất được tách riêng và có các bảo vệ chống quá tải, cắt ngắn mạch chạm chập phù hợp.
Tháng 4 năm 1950 nhà máy thủy điện Bàu Cạn có chiều cao cột nước 37m, tuabin trục ngang công suất 250 cv, 1000 vòng/phút đi vào hoạt động ổn định, máy hoàn toàn tự động nhờ có bộ điều tốc tự động và bộ điều chỉnh điện áp tự động để luôn bảo đảm chất lượng điện năng đạt 50 Hz, 230v/400v với công suất định mức 172 kw. Toàn bộ nhà máy chỉ cần một công nhân vận hành, người đầu tiên là ông Cai Loa, kế tục là ông Siu Bươi người dân tộc Jrai làm cho đến sau năm 1975. Người công nhân vận hành nhà máy thủy điện này được bố trí một căn nhà cách nhà máy 6m và không được rời nhà máy nửa bước, mọi lương thực thực phẩm có người đem xuống tận nơi. Tại thời điểm này, công suất điện dùng để chế biến trà vào mùa mưa chỉ ở mức 70 kw vì thế toàn bộ khu dân cư với 200 hộ gia đình đã được chủ Pháp cấp điện thắp sáng: mỗi gia đình công nhân được dùng 2 bóng 6 tấc ( 20 watt mỗi bóng ), các nhà của các ông Cai và Xếp thì được thêm ổ cắm điện ( prise de courant ) để lấy điện dùng quạt máy, là ủi… Nhưng thời gian cấp điện được phân theo 2 loại; điện cho khu dân cư ( village ) được đóng lúc 18giờ và cắt lúc 7 giờ sáng hôm sau bằng rơ le thời gian hẹn giờ, còn điện cho khu vực biệt thự ( villas ) cuả các ông chủ người Pháp thì được cấp liên tục 24/24.
-Lê Hoàng Thụy Vũ -
Tôi không phải là nhà nghiên cứu lịch sử, không phải là người sưu tầm “đồ cổ”, cũng không sở hữu các tư liệu cũ có giá trị ...tôi chỉ ghi nhận lại đây những hình ảnh và chi tiết với mong ước lưu trử lại được những nét đặc thù của Pleiku những ngày mới phát triển vào đầu thế kỷ 20th. Xin được thắp nén hương tưởng nhớ các cụ trong bài nhắc đến tên nay đã mất!
Những năm đầu của thập kỷ 20 thế kỷ trước người Pháp đã đặt chân đến Pleiku, ban đầu là người chủ đồn điền trà Biển Hồ ( PIT, Plantation Indochinoise des Thés, người dân quen gọi là sở trà Biển Hồ, thành lập từ 1921 ) và kế đến là ông chủ sở trà Bàu Cạn ( Plantations du Ia Puch, người dân quen gọi là sở trà Bàu Cạn hoặc đồn điền Catecka, thành lập năm 1923_ có tài liệu ghi 1926 nhưng giấy tờ còn lưu lại tại Bàu Cạn là 1923). Tại cả hai sở trà này người chủ Pháp đều đã cho trồng thử nghiệm cây cà phê, mà theo nhiều người làm việc lâu năm tại các nơi này cho biết vào thời điểm mới thành lập đồn điền trà Biển Hồ có khoảng 7,5 đến 10 hecta cây cà phê và đồn điền trà Bàu Cạn đến cuối năm 1929 có khoảng 62,5 hecta cây cà phê ( 65.000 cây cà phê theo báo cáo trước đại hội đồng cổ đông năm 1930). Có lẽ do doanh thu từ cây cà phê vào lúc bấy giờ không được nhiều bằng từ cây trà nên cả hai nơi này, cho đến nay, vẫn chỉ được biết đến như là hai cơ sở chuyên trồng, sản xuất và chế biến trà.
Tôi đã có nhiều dịp vào thăm và làm việc tại cả hai công ty trà này nhưng mãi gần đây mới nghiệm ra rằng mình có thể tìm hiểu kỹ hai nơi này để hiểu thêm một số điều về Pleiku cách đây hơn 50 năm trước, chẳng hạn : ta có thể đến chùa Bửu Minh trong sở trà Biển Hồ để từ đó hiểu thêm một vài vấn đề liên quan đến tín ngưỡng dân gian của người Pleiku xưa và với khu dân cư của sở trà Bàu Cạn, ta có thể hình dung ra việc cấp điện cấp nước của Pleiku vào thời điểm những năm 50 của thế kỷ trước…
*Vài nét về đồn điền trà Bàu Cạn:
Đồn điền trà Bàu Cạn được hình thành từ năm 1923 do các ông chủ người Pháp quản lý và khai thác. Tên gọi chính thức của đồn điền này là CATECKA S.A. ( Compagnie Agricole des Thés et Cafés du Kontum Annam, société anonyme_ Công ty nông nghiệp trà và cà phê tỉnh Kontum An Nam, công ty nặc danh ). Vốn pháp định của công ty thời bấy giờ là 1.247.500 Francs do ông Choisnel làm giám đốc, tư gia của ông nằm trong nơi ngày nay là khuôn viên trường tiểu học Lê Hồng Phong, xã Bàu Cạn ( kế tục là các ông Moistini, Salvaire, Portier và Louyrette; trong đó ông Salvaire nguyên là quan tư lái máy bay nên thời đó ông chủ đồn điền Bàu Cạn đã sắm chiếc máy bay 1 người lái và đủ điều kiện để tự mình bay đi kiểm tra các đội sản xuất trong đồn điền cũng như bay về Sàigòn nghỉ cuối tuần. Nhà để chiếc máy bay này làm bằng vì kèo sắt, nay là vị trí dẫy phòng học 2 tầng của trường THCS Nguyễn Viết Xuân và sân bay nằm liền ngay cạnh hàng rào của trường cấp 2 này, trải dài theo hướng Đông_Tây thuộc thôn Đồng Tâm. Sân bay này, các cụ già đã 85 tuổi hiện đang sống ở Pleiku gọi là sân bay Gia Tường ( đây là sân bay thứ nhì của Pleiku; sau khi sân bay đầu tiên từ thời Pháp tại làng Trà Nhao, tức làng Plei Nhao hiện nay, bị bỏ không sử dụng do nằm trong khu vực “kém an ninh” ). Đặt tên thế vì sân bay này nằm trên địa bàn thôn Gia Tường (Ia Từng)_theo các cụ, trước khi có sân bay Cù Hanh năm 1963, máy bay Dakota của Hàng không Việt Nam ( Air VN ) vẫn đáp nhờ xuống đây. Mãi đến năm 1978 công ty chè Bàu Cạn mới cho trồng cây trà trên diện tích này nên gọi là trà 78 ).
Đây là một đồn điền có nhiều nét đặc thù so với các đồn điền khác: có nhà máy thủy điện từ rất sớm, có máy bay và sân bay riêng, quy hoạch khu sản xuất và khu dân cư khá hợp lý với chợ, bệnh xá, trường học, chùa và hệ thống cấp điện cấp nước tương đối hoàn chỉnh. Có tài liệu cũ đề cập đến nhà thờ, có lẽ do thói quen nên nghĩ rằng người Pháp đến lập đồn điền và khu dân cư ắt sẽ xây dựng nhà thờ, nhưng thực tế trong khu dân cư của sở trà Bàu Cạn không hề có nhà thờ, ngày nghỉ cuối tuần vào thời điểm mới thành lập các ông chủ người Pháp thường đi nhà thờ mãi tận Kontum. Còn ngôi chùa tại khu dân cư Bàu Cạn cũng rất nhỏ bé chứ không được như chùa Bửu Minh của sở trà Biển Hồ, hiện chùa Bửu Minh đang được xem là một trong 5 ngôi chùa lớn của Pleiku; theo lời giải thích của cư dân Bàu Cạn thì vì chùa Bửu Hoa này ban đầu có một sư nữ trụ trì nhưng về sau sư hoàn tục, nên chùa không được đông thiện nam tín nữ!
Đến năm 1950, đồn điền trà này đã quản lý gần 1.000 ha cây trà, 1.000 ha rừng tự nhiên và có khoảng 200 gia đình công nhân làm công ăn lương, sinh sống trong khu dân cư gọi là “village” ( làng ), các ông Cai, xếp, thầy ký ăn ở theo cụm riêng, còn người Pháp và ban giám đốc ở khu biệt thự “ Villas”.
*Nhà máy thủy điện Bàu Cạn:
Trước năm 1950, theo các cụ công nhân đến làm việc ở đồn điền Catecka từ những năm 1948, toàn bộ người dân sống trong các khu dân cư của đồn điền này còn phải thắp đèn dầu, hàng tháng căng tin của đồn điền bán cho mỗi gia đình vài lít dầu hỏa để thắp sáng. Để phục vụ dây chuyền chế biến trà, ông chủ Pháp đã sắm một vài máy phát điện nhỏ chạy bằng dầu diesel. Vì đồn điền nằm cách suối Ia Puch chỉ vài trăm mét nên người chủ Pháp đã tiến hành khảo sát địa chất thủy văn để xây dựng nhà máy thủy điện Bàu Cạn trên suối này.
Không có tài liệu về thời điểm chính xác người Pháp tiến hành công tác thăm dò khảo sát địa chất thủy văn nhưng trong báo cáo của đồn điền Ia Puch trước đại hội đồng cổ đông công ty CATECKA họp ngày 30-9-1930 ông Choisnel đã đề cập đến việc có thể khai thác nguồn thủy năng của con suối Ia Puch để cấp điện dùng sản xuất chế biến trà đồng thời thay thế các loại máy trong xưởng chế biến chạy bằng hơi nước. Khá lâu sau, bản vẽ thiết kế do công ty Jacques Bouchoux, France hoàn thành ngày 21-08-1949 ( các máy biến áp được mua về và sử dụng vào mục đích cung cấp điện cho bơm nước tưới và chế biến trà cũng được sản xuất năm 1949 ). Nhà máy này nằm trên con suối Ia Puch thuộc xã Bàu Cạn, suối này cách xa xưởng chế biến chè Bàu Cạn khoảng 800 mét (?) về hướng đông. Chủ đầu tư công trình là một người Pháp tên là Choisnel ( dân chúng gọi là ông chủ Sọt nen ), giám đốc đồn điền Ia Puch .
Việc thi công xây dựng nhà máy thủy điện được điều hành bởi kỹ sư điện người Pháp De Mabe, các cai máy ( chef mécanicien ), cai xây dựng, đa số thợ mộc, thợ nề được tuyển từ Đà Nẵng ( Tourane ) và một ít là người Bình Định, còn lại người Pháp thuê lao động đơn giản là người đồng bào thiểu số Jrai, Ba na, Sê Đăng
Suối Ia Puch ( là một nhánh của suối Ia Drang ) bắt nguồn từ phía tây nam dãy núi Hàm Rồng, chảy theo hướng Đông Bắc_Tây nam và nhập vào sông Srepok ( Xêrêpốc ) ở bên bờ phải. Nhà máy nằm trên địa bàn xã Bàu Cạn, quận Thanh An ( nay là huyện Chư Prông ) với các tọa độ địa lý như sau:
*Vị trí tuyến đập: 13º51’ 59” vĩ độ Bắc; 107º51’39” kinh độ Đông.
*Vị trí nhà máy : 13º51’39” vĩ độ Bắc; 107º51’44” kinh độ Đông
Khi thi công nhà máy, người Pháp đã dùng những trang thiết bị như: máy trộn bê tông có kích cỡ kiểu dáng như hiện nay, động cơ máy nổ 8cv ( mã lực ) chạy bằng diesel, dùng xe lu nhỏ để làm đường, máy cày bánh lốp để tời tải đất và khai hoang. Đắp đập, chặn dòng và làm kênh dẫn dòng người Pháp dùng lao động thủ công hoàn toàn. Bể áp lực, bể điều tiết theo mùa, cắt lũ, tràn sự cố .v.v..người Pháp tận dụng lợi thế của địa hình nên gần như không có sự xâm hại,hoặc tác động xấu đến hệ sinh thái và môi trường quanh vùng .
Đường ống thủy lực đường kính 800 ly được làm bằng thép đen dày 5 ly chế tạo từ một bàn cuốn ống quay bằng lao động thủ công.Điện phục vụ thi công công trình được cấp bằng máy phát điện diesel, máy hàn điện một chiều 36 volt DC-300A , kéo bằng động cơ 3 pha 13cv.
Để vận chuyển và lắp đặt thiết bị, lắp đặt đường ống người ta dùng xe cam nhông (camion) kết hợp với ba lăng, ròng rọc và cáp thép, khi cần thì dùng thêm xe ba lua ( poids lourd, xe tải lớn ); thiết bị nặng nhất là máy biến áp gần 2 tấn (1986 kg).
Bên cạnh đó, để đưa điện từ nhà máy thủy điện về xưởng chế biến trà và khu dân cư, người chủ Pháp đã xây dựng đường dây tải điện 15kV bằng các trụ bê tông vuông dài 10 mét có bậc trèo và cũng là các lỗ chịu lực, các trụ này được đúc tập trung ( có một số trụ còn mang dòng số ghi lại ngày đúc: 16-1-50 hoặc 13-11-50 ) rồi đem rải và trồng vào các hố đào sẵn, sau đó đổ bê tông móng. Nhân lực thi công tuyến dây dài 10,3 km này gồm 30 người với xe máy kéo bánh hơi hỗ trợ. Xà đỡ để lắp sứ cách điện có 2 dạng chính: xà đỡ với 3 sứ nằm ngang nhau và loại ty sứ bằng thép tròn 26 ly mạ kẽm hình chữ Z, một đầu có 2 lỗ lắp vào thân cột, đầu kia lắp sứ thủy tinh 3 tầng màu xanh, khoảng cách giữa sứ với thân trụ đạt 0,6m . Do đường dây đi qua vùng đồi núi vào mùa mưa có nhiều giông sét nên kỹ sư thiết kế đã có giải pháp chống sét đánh vào công trình điện rất hiệu quả, chính vì thế mà các thiết bị điện đến bây giờ vẫn còn hoạt động tốt. Tại nơi sử dụng, điện cấp cho thắp sáng và điện cấp cho sản xuất được tách riêng và có các bảo vệ chống quá tải, cắt ngắn mạch chạm chập phù hợp.
Tháng 4 năm 1950 nhà máy thủy điện Bàu Cạn có chiều cao cột nước 37m, tuabin trục ngang công suất 250 cv, 1000 vòng/phút đi vào hoạt động ổn định, máy hoàn toàn tự động nhờ có bộ điều tốc tự động và bộ điều chỉnh điện áp tự động để luôn bảo đảm chất lượng điện năng đạt 50 Hz, 230v/400v với công suất định mức 172 kw. Toàn bộ nhà máy chỉ cần một công nhân vận hành, người đầu tiên là ông Cai Loa, kế tục là ông Siu Bươi người dân tộc Jrai làm cho đến sau năm 1975. Người công nhân vận hành nhà máy thủy điện này được bố trí một căn nhà cách nhà máy 6m và không được rời nhà máy nửa bước, mọi lương thực thực phẩm có người đem xuống tận nơi. Tại thời điểm này, công suất điện dùng để chế biến trà vào mùa mưa chỉ ở mức 70 kw vì thế toàn bộ khu dân cư với 200 hộ gia đình đã được chủ Pháp cấp điện thắp sáng: mỗi gia đình công nhân được dùng 2 bóng 6 tấc ( 20 watt mỗi bóng ), các nhà của các ông Cai và Xếp thì được thêm ổ cắm điện ( prise de courant ) để lấy điện dùng quạt máy, là ủi… Nhưng thời gian cấp điện được phân theo 2 loại; điện cho khu dân cư ( village ) được đóng lúc 18giờ và cắt lúc 7 giờ sáng hôm sau bằng rơ le thời gian hẹn giờ, còn điện cho khu vực biệt thự ( villas ) cuả các ông chủ người Pháp thì được cấp liên tục 24/24.
0 Comment: