Phạm Ngọc Thái với tình yêu quê hương tha thiết- Bùi Văn Dong
Phố núi và bạn bè... Chút gì để nhớ!
PHẠM NGỌC THÁI VỚI TÌNH YÊU QUÊ HƯƠNG THA THIẾT
BÙI VĂN DONG
Nguyên GV Trường ĐH Quốc gia
NR: 35 phố chợ Gia Lâm, Hà Nội
(Trích tiểu luận "Phạm Ngọc Thái- Con người và thi ca")
Tôi biết Phạm Ngọc Thái từ thuở còn chiến tranh, cùng là anh lính chiến ăn rừng ngủ rú trên mặt trận Tây Nguyên – Nam Bộ. Suốt chặng đường chinh chiến ấy, Thái ham viết nhật ký và làm thơ. Nhiều đêm nằm với nhau bên võng giữa rừng, anh thường đọc thơ cho chúng tôi nghe. Được biết những cuốn nhật ký đó đã bị mất trong chiến tranh, tác giả chỉ còn nhớ lại ít bài tản mạn, cũng là một điều đáng tiếc.
Bọn lính Hà Nội cùng trong tiểu đoàn chúng tôi ra đi hồi đó, hết chiến tranh kiểm lại chỉ còn mươi đứa sống sót trở về. Chẳng ai có thể ngờ rằng: cái anh chàng lính trận rất ham thích thơ thuở đó, nay đã trở thành một nhà thơ nổi danh trên văn đàn. Thái cho xuất bản cũng đến gần chục tập thơ và bình, qua các tác phẩm đó và nhiều chùm thơ anh cho quảng bá trên mạng - Không khỏi ngỡ ngàng về tâm lý, tình cảm Phạm Ngọc Thái hôm nay khác xưa nhiều quá?
Nếu đọc ở mảng thơ tình ta nhận thấy một tâm hồn tha thiết yêu nhưng hoang dã, mà phần nhiều đều là những mối tình dang dở hoặc tan vỡ, tác giả nuối lại những kỷ niệm xa xưa.Trong số bài thơ khác, ta lại thấy một cái bóng bảng lảng, quanh quất cõi thiền của một con người vào tuổi hoa niên. Có lẽ không phải chỉ là vấn đề tuổi tác, còn do khách quan cuộc sống và thời thế… đã làm thay đổi những suy nghĩ và tâm hồn tác giả - như trong tựa đề của tập thơ Người Đàn Bà Trắng:
Tiếng chuông chùa bốn phía âm vang
Mình lễ cả ba thiên toà phật
Người có vận! Thôi đừng oán trách
Chuyện thơ văn vừa thực, vừa chơi...
Phảng phất nỗi u hoài, tìm đến nơi cửa Phật. Còn tựa đề tập Rung Động Trái Tim, thì tâm tư nhà thơ lại hoà trộn vào cát bụi cuộc đời:
Con sẻ hót mênh mông đồng nước
Người hát rong hát vui sân ga
Tiếng Hát Đời Thường thường lẫn vào bụi cát
Anh hát cho đời...
Anh hát em nghe...
Phạm Ngọc Thái lớn lên khi đất nước chìm ngập bởi chiến tranh. Mới bước qua ngưỡng cửa thời niên thiếu, anh đã rời bỏ cuộc đời sinh viên đại học - Từ giã Hà Nội vào chiến đấu trên chiến trường miền Nam, tới tận ngày chiến tranh kết thúc. Khi đó tâm lý cũng đã mệt mỏi đường chinh chiến, Phạm Ngọc Thái rời khỏi quân ngũ trở về thành phố quê hương, tiếp tục theo học trường Đại học Ngoại thương, để trở thành anh cán bộ ngành ngoại thương quốc tế.
Diễn biến tư tưởng và tình cảm cuộc đời tác giả, những năm hoà bình trở lại đây khá phức tạp: Có lúc anh rơi vào sự chán chường thời thế, chẳng khác nào một người đi ở ẩn, sớm hôm sống lẩn khuất hoặc phiêu lãng với bạn bè, vui thú thơ văn. Tâm trạng ấy đã được tác giả bộc lộ ở nhiều bài:
Ta đã sống phần đời sau chót
Trong ngôi nhà ẩn khuất bóng nhân gian
Một cuộc sống bình thường bầu bạn
Nửa trăng hồ, nửa gã hiền nhân.
(Trên nấm mồ truyền thuyết)
Khi lại rơi vào sự cô đơn đến gai người:
Hãy vứt ta lên chiếc giường
Phủ đệm, chăn, màn...
làm bằng những tế bào đói khát
Ta không đói khát tình em?
Mà đói khát bầu trời.
Hay là:
Một thứ ma người
Quen hút khí đêm thay cho sữa mẹ
Chơi với hoa, với cá, với chim
(Cô đơn)
Tha thẩn với trăng sao:
Ta! Anh thi sĩ của nhân gian
Tạc thù với cả khối sao trăng
Hồn hoa nâng cốc xin dốc cạn
Dẫu chỉ mình thôi vẫn mê man
(Tối quán)
Cuộc đời tác giả trải qua bao phong trần, phải chấp nhận không ít những mất mát về cuộc sống và tình yêu? Tất cả những sâu sắc ấy đều được dội vào trong thơ. Bởi vậy, một mảng lớn thi ca Phạm Ngọc Thái đầy ắp tính hiện thực. Nó bao chứa tính nhân sinh xã hội cùng thế giới quan của nhà thơ.
Thơ Phạm Ngọc Thái rất hàm súc, kể cả những bài viết dưới dạng triết lý đến những bài trải theo dòng cảm xúc tự nhiên. Từ nhận thức về tình yêu và cuộc sống được trải nghiệm qua đường đời, thấm tháp chảy vào thơ. Thơ tình thì huyền diệu, có sức rung cảm trái tim người yêu thơ! Thơ đời lại ôm bọc những giá trị hiện thực xã hội sâu sắc. Đặc điểm cơ bản trong tính triết lý thơ đời của tác giả, là vận từ đời sống dân gian, nỗi kiếp con người. Thơ được chắt ra từ tim óc nên đọc không bị gò ép, mà tạo thành bản sắc riêng của thơ anh.
Nhiều bài thơ của Thái bắt nguồn từ đời thường. Cái đời thường ấy được khái quát sâu sắc giữa con người với xã hội, cá nhân và thế giới, tuỳ theo cảnh tình mà tạo thành vóc dáng thơ ca. Nó chẳng những có giá trị hiện thực, còn mang theo tính triết học, một nhân sinh quan sâu sắc cùng thế giới quan phong phú, cô đúc đến mức điển hình. Như những bài: Nỗi trăn trở người đi tìm vàng, Em bán xoài, Làm ma em vợ, Khoảng trời phía sau, Những kỷ niệm bên con, Đêm trung thu và đứa ăn mày v.v...
Trên đây tôi chỉ nêu ra một số nét để dẫn dắt cuộc bình luận, giờ xin đi vầo chủ đề cụ thể.
PHẠM NGỌC THÁI VỚI TÌNH YÊU QUÊ HƯƠNG THA THIẾT
Vào cuối thập kỷ 80 của thế kỷ trước, nhà thơ Phạm Ngọc Thái được Bộ ngoại thương biệt phá ra nước ngoài công tác, quản lý những người đi xuất khẩu lao động, đồng thời kết hợp làm kinh tế gia đình. Những năm tháng xa nước ấy, anh đã viết nhiều thơ về quê hương:
Có một khoảng trời để thương, để nhớ
Là khoảng trời ở đó có em
Những bóng cây in trên đường phố thân quen
Đêm đêm chiếc lá nhớ lại bay về, xào xạc...
(có một khoảng trời)
"Có một khoảng trời" cũng là nhan đề của tập thơ đầu tay, mà anh đã cho xuất bản sau thời gian đó. Thơ chan chứa những kỉ niệm yêu thương. Tiếng hát từ trong tâm khảm, trái tim nhà thơ bay lên! Nó mang hơi thở nơi dân dã, tình cảm đầm ấm chốn đời thường. Những sự việc, hình ảnh, ta thường gặp trong các mái nhà nơi phố nghèo; trên một bến ga thân quen hay bên bờ hồ trăng thanh, gió thổi. Đôi khi tiếng hát ấy vẳng lên cô quạnh, lẻ loi, lầm lụi hoà vào trong cát bụi cuộc đời.
Như bài “Khúc hát người tha phương”:
Đôi cánh chim trời quạt gió mây
Ta về non nước, nước non đây
Lấy hình ảnh cánh chim quạt vào trong mây gió, để nói lên nỗi lòng xốn xang:
Nghe thu xào xạc rung mùa lá
Đông cũng hương đông, lạ chưa này?
Lá mùa thu thì xào xạc vì vui, còn mùa đông lạnh lẽo khô khốc… thế mà người lại cảm thấy ngào ngạt hương hoa trái? Quê huơng, xứ sở đã chắp cánh để hồn thơ bay! Thời kỳ đó để mưu cầu cuộc sống, có biết bao người tìm cách ở lại, hoặc chạy sang Tây Đức. Mặc dù anh biết ở quê hương vẫn đang trong cảnh nghèo túng, khó khăn, như đã mô tả:
Ở chốn quê nhà bụi cát bay
Hòa bình mà tan mộng trăng say
“…tan mộng trăng say”: câu thơ nói lên sự tan vỡ trong lòng tác giả, sau một cuộc chiến tranh trở về. Những hy vọng, ước mơ về cuộc sống cũng thành mây khói… vậy mà giờ đây khi nghe tin trở lại quê nhà, thái độ của anh vẫn rất dứt khoát:
Ta về bầu bạn cùng mưa nắng
Lưu lạc người ơi! Gió cuốn thôi...
Hay là:
Ta về trọn cuộc đất cố hương
Với mộng ngàn thu gửi nhân gian
Mộng và hồn của tác giả bài thơ "Trở về" này, quả thật là gắn bó máu thịt với quê hương. Nhưng điều ta cần quan tâm chính còn ở hai câu thơ kết:
Đông Âu bão giật xiêu Thành Mác
Bốn bể chân trời lạc khói sương
Chủ nghĩa Mác đã trở nên hoang tưởng, hàng loạt các nươc XHCN Đông Âu bị sụp đổ - Thế giới chìm vào trong màn sương khói, tương lai nhân loại không biết sẽ ra sao? Chỉ từ một bài thơ 12 câu có ý tự bạch, đã vượt lên bao quát cả tính nhân tình thế sự! Lời thơ vẫn bay, tình thơ tha thiết, tứ thơ thật khúc triết và sâu sắc.
2/. “TIẾNG HÁT ĐỜI THƯỜNG” - cũng được tác giả sáng tác ở nước Đức vào năm 1989. Bài thơ viết về người vợ hiền với đứa con thơ ở nơi quê nhà đang mong mỏi đợi chồng:
Trong một phố nghèo có người vợ trẻ
Vẫn đón con đi, về... như thường lệ
Vóc em thanh cũng thể mùa xuân
Đôi mắt em, đôi mắt ấy màu đen.
Đôi mắt màu đen là đôi mắt người phụ nữ Á Đông, mà người ta thường gọi là đôi mắt đen huyền. Nhưng ở đây, đôi mắt đen mà tác giả gợi lại của người vợ trẻ trở nên yêu dấu và tha thiết biết bao: Đôi mắt em, đôi mắt ấy màu đen /- Đó là đôi mắt của quê hương, ngày đêm vẫn ngước nhìn lên bầu trời xanh thăm thẳm chờ anh. Lời thơ tha thiết, khó có bút nào tả hết.
Nếu Xuân Diệu viết:
Mắt em thăm thẳm như màu gió
Thơ cũng vàng trong như nắng hanh
Đó là đôi mắt hẹn hò của tình yêu trai gái. Còn trong bài thơ này, đôi mắt lại chứa đựng một nỗi niềm của người vợ gần gũi bên chồng: buồn vui và sướng khổ trong cuộc sống. Ngày ngày nàng vẫn đón con đi, về... nơi quê nhà. Thơ tả bình dị nhưng vẫn đọng.
Đó chính là cái phố nghèo mà nhà thơ đã từ biệt để ra đi đất khách, quê người. Quê hương, còn ở đâu thân thiết hơn thế nữa! Nàng là tình yêu trái tim của cuộc đời anh. Hình ảnh thành phố thân thuộc được tác giả gợi ra:
Ôi quê hương!
Cái phố nhỏ cứ mưa là lầy lội
Cháu gái nhà bên tuổi không đoán nổi
Chưa tối đã khêu đèn, bê mẹt thuốc rao đêm
Ngày hai bữa, bữa nào cũng vội.
Đứa cháu gái bé bỏng ấy cứ tối tối phải bê mẹt thuốc rao bán kiếm sống, đến nỗi không còn đoán ra được tuổi đời của nó? Con phố nhỏ thân quen thì mỗi cơn mưa xuống lại ngập úng, lầy lội - Ở đó, vợ con anh: Ngày hai bữa, bữa nào cũng vội /- Tất cả cứ thế, cứ thế chảy trào trong cảm xúc của nhà thơ. Lời thơ không cầu kỳ mà vẫn tạo dựng những hình ảnh quê hương thân thiết. Ngay ngôi nhà vợ con anh đang sống, cũng được miêu tả bằng những hình ảnh gần gũi mà đầy ý nghĩa:
Ngôi nhà nhỏ bên đền
Gốc đa, quán báo
Nơi ngày xưa ai bán chiếu gon (1)
Đêm hồ ước trăng soi
Chiều lá me, lá sấu
Cung thành xưa dấu đại bác còn. (2)
- Chú thích (1) ý rằng: Ngôi nhà nhỏ ngày đêm soi mình lên bóng nước, với câu chuyện xa xưa: Nàng Thị Lộ đi bán chiếu gon ở Hồ Tây đã gặp ông Nguyễn Trãi, cùng câu chuyện đối đáp giữa hai người đã trở thành truyền thuyết lưu tụng đến ngày nay.
Nguyễn Trãi ướm hỏi Thị Lộ rằng:
Ai ở Tây Hồ bán chiếu gon?
Chẳng hay chiếu hết hay còn
Xuân xanh chừng độ bao nhiêu tuổi
Đã có chồng chưa được mấy con?
Nàng Thi Lộ đáp lại:
Tôi ở Tây Hồ bán chiếu gon
Cớ chi ông hỏi hết hay còn?
Xuân xanh chừng độ trằng tròn lẻ
Chồng còn chưa có, hỏi chi con.
- Chú thích (2): Là hình ảnh Thành Thăng Long Cửa Bắc, còn in dấu đạn đại bác khi quân Pháp đổ bộ vào đánh chiếm cố đô. Thăng Long thất thủ, quan tổng đốc Hoàng Diệu đã phải thắt cổ để tuẫn tiết.
Bài thơ thật sâu sắc, ý tình chan chứa vô cùng. Chính cái thành phố quê hương ấy và những người thân, từng một thời đã theo anh ra mặt trận của cuộc chiến tranh xưa:
Miền đã theo tôi vào cuộc Trường Sơn
Hành quân rừng già võng treo sườn gió
Giờ lại theo anh trong cuộc sống tha phương nơi đất khách, quê người:
Ai biết chiều nay người vợ trẻ
Đứng mong chồng bên đứa con thơ
Giọt lệ cháy xót lòng mang sắc xanh thu!
Nó heo hút tựa con chim sẻ hót trên cánh đồng mênh mang nước, lại thân thương trong tiếng của người hát rong trên sân ga. Ta cảm thấy như nhà thơ đã khóc! Nước mắt anh chảy tràn trong bể tình nhân thế này. Giọt lệ ấy đẫm tình người mà xanh sắc mùa thu quê hương. Bài thơ muốn nhắn nhủ cùng những ai khi rời xa tổ quốc, luôn hướng về nơi chôn rau cắt rốn của mình:
Tuyết bạc quê người... xứ sở mưa cau...
Đi đâu, đến đâu: Nhớ về phố ấy!
"Tiếng hát đời thường" là một bài thơ quê hương hay!
3/. Bài “NGƯỜI CON GÁI SÔNG XƯA”
Nhớ về những tháng năm, khi đất nước vẫn còn trong chiến tranh đánh Mỹ. Có một chiều trên đường ra mặt trận, nhà thơ đã cùng đơn vị dừng chân nghỉ lại ở một thôn xóm nhỏ. Khi ấy, làng quê Việt Nam rất yêu thương với những người chiến binh ra đi, vào nơi chiến trường đánh Mỹ. Lúc đó, Phạm Ngọc Thái là một anh lính trẻ, chàng trai tuổi mười chín, đôi mươi, với một trái tim đang khát vọng và cháy bỏng tình yêu.
Chính trong tối đó, anh gặp một thiếu nữ làng. Làng em ở bên con Sông Hồng, cuồn cuộn phù sa… màu son sắt, thủy chung:
Sông Hồng chảy muôn năm vẫn đỏ
Bãi ngô non xanh gió chân mây
Người con gái anh gặp thời chinh chiến
Cái buổi qua làng lâu bấy đến nay.
Tuổi trẻ hồn xuân phơi phới. Cô thiếu nữ làng lại xinh xắn, dễ thương. Thế là, chỉ giây lát của tình quân dân thắm thiết, anh và nàng đã đã dan díu với nhau. Hẳn người con gái ấy phải để lại trong anh nhiều nỗi cảm thương - Bởi vậy, dù mấy mươi năm qua, khi mái tóc trên đầu đã ngả bóng, nhà thơ vẫn bồi hồi nghĩ về những kỉ niệm xa xưa. Bài thơ được ra đời như thế! Lòng anh giữa trời sao mênh mông nỗi nhớ:
Lá tre rụng bao mùa, trôi dĩ vãng
Và quê em, đời sống có nâng cao?
Người năm ấy, em ơi! Giờ tóc trắng
Đang bồi hồi thao thiết giữa trăng sao.
Tác giả kể lại: Tối đó, người con gái ngồi bên anh trong ánh bếp lửa hồng. Tháng năm, bóng em vẫn còn soi mãi vào cuộc đời anh với tình quê đằm thắm:
Làng em luỹ tre xanh bất tử!
Mới gặp một đêm mà đã thấy thương thương
Bóng nhìn anh, mắt theo giờ còn biếc
Như phù sa cứ bồi mãi khôn cùng...
Phạm Ngọc Thái là một con người của quê hương bình dị, thân thương. Khi cuộc đời nhà thơ sau này đầy những đắng đót, xa xót... thì những kỷ niệm ngọt ngào xưa lại càng da diết trái tim anh. Lời thơ viết về hồi ức mà thật rung cảm, tưởng như có cả lệ chảy ở bên trong. Tình em quyện với tình quê hương máu thịt, tha thiết mà vô biên. Tất cả theo thời gian, như bóng câu bay qua để không bao giờ còn quay lại - nhưng vẫn còn đây, tấm tình thuỷ chung, in dấu trong thơ của thi nhân:
Người con gái sông xưa, ơi có biết!
Một thời trai bão táp cuộc hành quân...
Đêm thành phố nhớ em buồn da Hãy vứt ta lên chiếc giường diết
Em bây giờ, có hạnh phúc không em?
Bài thơ đầy ắp tính nhân văn.
Bọn lính Hà Nội cùng trong tiểu đoàn chúng tôi ra đi hồi đó, hết chiến tranh kiểm lại chỉ còn mươi đứa sống sót trở về. Chẳng ai có thể ngờ rằng: cái anh chàng lính trận rất ham thích thơ thuở đó, nay đã trở thành một nhà thơ nổi danh trên văn đàn. Thái cho xuất bản cũng đến gần chục tập thơ và bình, qua các tác phẩm đó và nhiều chùm thơ anh cho quảng bá trên mạng - Không khỏi ngỡ ngàng về tâm lý, tình cảm Phạm Ngọc Thái hôm nay khác xưa nhiều quá?
Nếu đọc ở mảng thơ tình ta nhận thấy một tâm hồn tha thiết yêu nhưng hoang dã, mà phần nhiều đều là những mối tình dang dở hoặc tan vỡ, tác giả nuối lại những kỷ niệm xa xưa.Trong số bài thơ khác, ta lại thấy một cái bóng bảng lảng, quanh quất cõi thiền của một con người vào tuổi hoa niên. Có lẽ không phải chỉ là vấn đề tuổi tác, còn do khách quan cuộc sống và thời thế… đã làm thay đổi những suy nghĩ và tâm hồn tác giả - như trong tựa đề của tập thơ Người Đàn Bà Trắng:
Tiếng chuông chùa bốn phía âm vang
Mình lễ cả ba thiên toà phật
Người có vận! Thôi đừng oán trách
Chuyện thơ văn vừa thực, vừa chơi...
Phảng phất nỗi u hoài, tìm đến nơi cửa Phật. Còn tựa đề tập Rung Động Trái Tim, thì tâm tư nhà thơ lại hoà trộn vào cát bụi cuộc đời:
Con sẻ hót mênh mông đồng nước
Người hát rong hát vui sân ga
Tiếng Hát Đời Thường thường lẫn vào bụi cát
Anh hát cho đời...
Anh hát em nghe...
Phạm Ngọc Thái lớn lên khi đất nước chìm ngập bởi chiến tranh. Mới bước qua ngưỡng cửa thời niên thiếu, anh đã rời bỏ cuộc đời sinh viên đại học - Từ giã Hà Nội vào chiến đấu trên chiến trường miền Nam, tới tận ngày chiến tranh kết thúc. Khi đó tâm lý cũng đã mệt mỏi đường chinh chiến, Phạm Ngọc Thái rời khỏi quân ngũ trở về thành phố quê hương, tiếp tục theo học trường Đại học Ngoại thương, để trở thành anh cán bộ ngành ngoại thương quốc tế.
Diễn biến tư tưởng và tình cảm cuộc đời tác giả, những năm hoà bình trở lại đây khá phức tạp: Có lúc anh rơi vào sự chán chường thời thế, chẳng khác nào một người đi ở ẩn, sớm hôm sống lẩn khuất hoặc phiêu lãng với bạn bè, vui thú thơ văn. Tâm trạng ấy đã được tác giả bộc lộ ở nhiều bài:
Ta đã sống phần đời sau chót
Trong ngôi nhà ẩn khuất bóng nhân gian
Một cuộc sống bình thường bầu bạn
Nửa trăng hồ, nửa gã hiền nhân.
(Trên nấm mồ truyền thuyết)
Khi lại rơi vào sự cô đơn đến gai người:
Hãy vứt ta lên chiếc giường
Phủ đệm, chăn, màn...
làm bằng những tế bào đói khát
Ta không đói khát tình em?
Mà đói khát bầu trời.
Hay là:
Một thứ ma người
Quen hút khí đêm thay cho sữa mẹ
Chơi với hoa, với cá, với chim
(Cô đơn)
Tha thẩn với trăng sao:
Ta! Anh thi sĩ của nhân gian
Tạc thù với cả khối sao trăng
Hồn hoa nâng cốc xin dốc cạn
Dẫu chỉ mình thôi vẫn mê man
(Tối quán)
Cuộc đời tác giả trải qua bao phong trần, phải chấp nhận không ít những mất mát về cuộc sống và tình yêu? Tất cả những sâu sắc ấy đều được dội vào trong thơ. Bởi vậy, một mảng lớn thi ca Phạm Ngọc Thái đầy ắp tính hiện thực. Nó bao chứa tính nhân sinh xã hội cùng thế giới quan của nhà thơ.
Thơ Phạm Ngọc Thái rất hàm súc, kể cả những bài viết dưới dạng triết lý đến những bài trải theo dòng cảm xúc tự nhiên. Từ nhận thức về tình yêu và cuộc sống được trải nghiệm qua đường đời, thấm tháp chảy vào thơ. Thơ tình thì huyền diệu, có sức rung cảm trái tim người yêu thơ! Thơ đời lại ôm bọc những giá trị hiện thực xã hội sâu sắc. Đặc điểm cơ bản trong tính triết lý thơ đời của tác giả, là vận từ đời sống dân gian, nỗi kiếp con người. Thơ được chắt ra từ tim óc nên đọc không bị gò ép, mà tạo thành bản sắc riêng của thơ anh.
Nhiều bài thơ của Thái bắt nguồn từ đời thường. Cái đời thường ấy được khái quát sâu sắc giữa con người với xã hội, cá nhân và thế giới, tuỳ theo cảnh tình mà tạo thành vóc dáng thơ ca. Nó chẳng những có giá trị hiện thực, còn mang theo tính triết học, một nhân sinh quan sâu sắc cùng thế giới quan phong phú, cô đúc đến mức điển hình. Như những bài: Nỗi trăn trở người đi tìm vàng, Em bán xoài, Làm ma em vợ, Khoảng trời phía sau, Những kỷ niệm bên con, Đêm trung thu và đứa ăn mày v.v...
Trên đây tôi chỉ nêu ra một số nét để dẫn dắt cuộc bình luận, giờ xin đi vầo chủ đề cụ thể.
PHẠM NGỌC THÁI VỚI TÌNH YÊU QUÊ HƯƠNG THA THIẾT
Vào cuối thập kỷ 80 của thế kỷ trước, nhà thơ Phạm Ngọc Thái được Bộ ngoại thương biệt phá ra nước ngoài công tác, quản lý những người đi xuất khẩu lao động, đồng thời kết hợp làm kinh tế gia đình. Những năm tháng xa nước ấy, anh đã viết nhiều thơ về quê hương:
Có một khoảng trời để thương, để nhớ
Là khoảng trời ở đó có em
Những bóng cây in trên đường phố thân quen
Đêm đêm chiếc lá nhớ lại bay về, xào xạc...
(có một khoảng trời)
"Có một khoảng trời" cũng là nhan đề của tập thơ đầu tay, mà anh đã cho xuất bản sau thời gian đó. Thơ chan chứa những kỉ niệm yêu thương. Tiếng hát từ trong tâm khảm, trái tim nhà thơ bay lên! Nó mang hơi thở nơi dân dã, tình cảm đầm ấm chốn đời thường. Những sự việc, hình ảnh, ta thường gặp trong các mái nhà nơi phố nghèo; trên một bến ga thân quen hay bên bờ hồ trăng thanh, gió thổi. Đôi khi tiếng hát ấy vẳng lên cô quạnh, lẻ loi, lầm lụi hoà vào trong cát bụi cuộc đời.
Như bài “Khúc hát người tha phương”:
Đi về đâu cuối chiềuThơ của Thái về nơi chôn rau cắt rốn ấy, bộc lộ những tình cảm rất máu thịt. Trong chủ đề về “Tình yêu quê hương” này, tôi xin phân tích đôi ba bài để thấy rõ điều đó.
Khi xung quanh vắng lặng
Con thú nào lạc bạn
Hoảng hốt giữa đồi nương
Suối róc rách bìa rừng
Cứ kêu hoài chân vực
Một thành phố quê hương
Hiện lên trong đáy mắt.
Ôi, cuộc đời nghèo xác
Nằm chết giữa tình thương
Có người vợ hiền lành
Với con tôi ở đó...
Chiều nay trong nắng đỏ
Bước lang thang mình tôi
Khúc buồn như chim bay
Hỡi người tha phương ơi?
Đi về đâu cuối chiều
Đời xa nước cô liêu!
Nước Đức
4/9/1988
1/. TRỞ VỀ
Đôi cánh chim trời quạt gió mâyBài thơ được tác giả sáng tác ở nước ngoài vào cuối năm 1990, khi Đông Đức mất vào tay Tây Đức, kéo theo một loạt nước XHCN Đông Âu bị sụp đổ. Sau những năm ra ngoại quốc, lúc này anh đang chuẩn bị rời khỏi Đức trở lại quê nhà. Tuy hoàn cảnh thời thế bắt buộc phải trở về cố hương trước thời hạn, nhưng lòng anh lại vui mừng khôn xiết. Ta hãy nghe nhà thơ thổ lộ:
Ta về non nước nước non đây
Nghe thu xào xạc rung mùa lá
Đông cũng hương đông lạ chưa này?
Ở chốn quê nhà bụi cát bay
Hoà bình mà tan mộng trăng say
Ta về bầu bạn cùng mưa nắng
Lưu lạc người ơi! Gió cuốn thôi…
Ta về trọn cuộc đất cố hương
Với mộng ngàn thu gửi nhân gian
Đông Âu bão giật xiêu Thành Mác
Bốn bể chân trời lạc khói sương.
Đôi cánh chim trời quạt gió mây
Ta về non nước, nước non đây
Lấy hình ảnh cánh chim quạt vào trong mây gió, để nói lên nỗi lòng xốn xang:
Nghe thu xào xạc rung mùa lá
Đông cũng hương đông, lạ chưa này?
Lá mùa thu thì xào xạc vì vui, còn mùa đông lạnh lẽo khô khốc… thế mà người lại cảm thấy ngào ngạt hương hoa trái? Quê huơng, xứ sở đã chắp cánh để hồn thơ bay! Thời kỳ đó để mưu cầu cuộc sống, có biết bao người tìm cách ở lại, hoặc chạy sang Tây Đức. Mặc dù anh biết ở quê hương vẫn đang trong cảnh nghèo túng, khó khăn, như đã mô tả:
Ở chốn quê nhà bụi cát bay
Hòa bình mà tan mộng trăng say
“…tan mộng trăng say”: câu thơ nói lên sự tan vỡ trong lòng tác giả, sau một cuộc chiến tranh trở về. Những hy vọng, ước mơ về cuộc sống cũng thành mây khói… vậy mà giờ đây khi nghe tin trở lại quê nhà, thái độ của anh vẫn rất dứt khoát:
Ta về bầu bạn cùng mưa nắng
Lưu lạc người ơi! Gió cuốn thôi...
Hay là:
Ta về trọn cuộc đất cố hương
Với mộng ngàn thu gửi nhân gian
Mộng và hồn của tác giả bài thơ "Trở về" này, quả thật là gắn bó máu thịt với quê hương. Nhưng điều ta cần quan tâm chính còn ở hai câu thơ kết:
Đông Âu bão giật xiêu Thành Mác
Bốn bể chân trời lạc khói sương
Chủ nghĩa Mác đã trở nên hoang tưởng, hàng loạt các nươc XHCN Đông Âu bị sụp đổ - Thế giới chìm vào trong màn sương khói, tương lai nhân loại không biết sẽ ra sao? Chỉ từ một bài thơ 12 câu có ý tự bạch, đã vượt lên bao quát cả tính nhân tình thế sự! Lời thơ vẫn bay, tình thơ tha thiết, tứ thơ thật khúc triết và sâu sắc.
2/. “TIẾNG HÁT ĐỜI THƯỜNG” - cũng được tác giả sáng tác ở nước Đức vào năm 1989. Bài thơ viết về người vợ hiền với đứa con thơ ở nơi quê nhà đang mong mỏi đợi chồng:
Trong một phố nghèo có người vợ trẻ
Vẫn đón con đi, về... như thường lệ
Vóc em thanh cũng thể mùa xuân
Đôi mắt em, đôi mắt ấy màu đen.
Đôi mắt màu đen là đôi mắt người phụ nữ Á Đông, mà người ta thường gọi là đôi mắt đen huyền. Nhưng ở đây, đôi mắt đen mà tác giả gợi lại của người vợ trẻ trở nên yêu dấu và tha thiết biết bao: Đôi mắt em, đôi mắt ấy màu đen /- Đó là đôi mắt của quê hương, ngày đêm vẫn ngước nhìn lên bầu trời xanh thăm thẳm chờ anh. Lời thơ tha thiết, khó có bút nào tả hết.
Nếu Xuân Diệu viết:
Mắt em thăm thẳm như màu gió
Thơ cũng vàng trong như nắng hanh
Đó là đôi mắt hẹn hò của tình yêu trai gái. Còn trong bài thơ này, đôi mắt lại chứa đựng một nỗi niềm của người vợ gần gũi bên chồng: buồn vui và sướng khổ trong cuộc sống. Ngày ngày nàng vẫn đón con đi, về... nơi quê nhà. Thơ tả bình dị nhưng vẫn đọng.
Đó chính là cái phố nghèo mà nhà thơ đã từ biệt để ra đi đất khách, quê người. Quê hương, còn ở đâu thân thiết hơn thế nữa! Nàng là tình yêu trái tim của cuộc đời anh. Hình ảnh thành phố thân thuộc được tác giả gợi ra:
Ôi quê hương!
Cái phố nhỏ cứ mưa là lầy lội
Cháu gái nhà bên tuổi không đoán nổi
Chưa tối đã khêu đèn, bê mẹt thuốc rao đêm
Ngày hai bữa, bữa nào cũng vội.
Đứa cháu gái bé bỏng ấy cứ tối tối phải bê mẹt thuốc rao bán kiếm sống, đến nỗi không còn đoán ra được tuổi đời của nó? Con phố nhỏ thân quen thì mỗi cơn mưa xuống lại ngập úng, lầy lội - Ở đó, vợ con anh: Ngày hai bữa, bữa nào cũng vội /- Tất cả cứ thế, cứ thế chảy trào trong cảm xúc của nhà thơ. Lời thơ không cầu kỳ mà vẫn tạo dựng những hình ảnh quê hương thân thiết. Ngay ngôi nhà vợ con anh đang sống, cũng được miêu tả bằng những hình ảnh gần gũi mà đầy ý nghĩa:
Ngôi nhà nhỏ bên đền
Gốc đa, quán báo
Nơi ngày xưa ai bán chiếu gon (1)
Đêm hồ ước trăng soi
Chiều lá me, lá sấu
Cung thành xưa dấu đại bác còn. (2)
- Chú thích (1) ý rằng: Ngôi nhà nhỏ ngày đêm soi mình lên bóng nước, với câu chuyện xa xưa: Nàng Thị Lộ đi bán chiếu gon ở Hồ Tây đã gặp ông Nguyễn Trãi, cùng câu chuyện đối đáp giữa hai người đã trở thành truyền thuyết lưu tụng đến ngày nay.
Nguyễn Trãi ướm hỏi Thị Lộ rằng:
Ai ở Tây Hồ bán chiếu gon?
Chẳng hay chiếu hết hay còn
Xuân xanh chừng độ bao nhiêu tuổi
Đã có chồng chưa được mấy con?
Nàng Thi Lộ đáp lại:
Tôi ở Tây Hồ bán chiếu gon
Cớ chi ông hỏi hết hay còn?
Xuân xanh chừng độ trằng tròn lẻ
Chồng còn chưa có, hỏi chi con.
- Chú thích (2): Là hình ảnh Thành Thăng Long Cửa Bắc, còn in dấu đạn đại bác khi quân Pháp đổ bộ vào đánh chiếm cố đô. Thăng Long thất thủ, quan tổng đốc Hoàng Diệu đã phải thắt cổ để tuẫn tiết.
Bài thơ thật sâu sắc, ý tình chan chứa vô cùng. Chính cái thành phố quê hương ấy và những người thân, từng một thời đã theo anh ra mặt trận của cuộc chiến tranh xưa:
Miền đã theo tôi vào cuộc Trường Sơn
Hành quân rừng già võng treo sườn gió
Giờ lại theo anh trong cuộc sống tha phương nơi đất khách, quê người:
Ai biết chiều nay người vợ trẻ
Đứng mong chồng bên đứa con thơ
Giọt lệ cháy xót lòng mang sắc xanh thu!
Nó heo hút tựa con chim sẻ hót trên cánh đồng mênh mang nước, lại thân thương trong tiếng của người hát rong trên sân ga. Ta cảm thấy như nhà thơ đã khóc! Nước mắt anh chảy tràn trong bể tình nhân thế này. Giọt lệ ấy đẫm tình người mà xanh sắc mùa thu quê hương. Bài thơ muốn nhắn nhủ cùng những ai khi rời xa tổ quốc, luôn hướng về nơi chôn rau cắt rốn của mình:
Tuyết bạc quê người... xứ sở mưa cau...
Đi đâu, đến đâu: Nhớ về phố ấy!
"Tiếng hát đời thường" là một bài thơ quê hương hay!
3/. Bài “NGƯỜI CON GÁI SÔNG XƯA”
Nhớ về những tháng năm, khi đất nước vẫn còn trong chiến tranh đánh Mỹ. Có một chiều trên đường ra mặt trận, nhà thơ đã cùng đơn vị dừng chân nghỉ lại ở một thôn xóm nhỏ. Khi ấy, làng quê Việt Nam rất yêu thương với những người chiến binh ra đi, vào nơi chiến trường đánh Mỹ. Lúc đó, Phạm Ngọc Thái là một anh lính trẻ, chàng trai tuổi mười chín, đôi mươi, với một trái tim đang khát vọng và cháy bỏng tình yêu.
Chính trong tối đó, anh gặp một thiếu nữ làng. Làng em ở bên con Sông Hồng, cuồn cuộn phù sa… màu son sắt, thủy chung:
Sông Hồng chảy muôn năm vẫn đỏ
Bãi ngô non xanh gió chân mây
Người con gái anh gặp thời chinh chiến
Cái buổi qua làng lâu bấy đến nay.
Tuổi trẻ hồn xuân phơi phới. Cô thiếu nữ làng lại xinh xắn, dễ thương. Thế là, chỉ giây lát của tình quân dân thắm thiết, anh và nàng đã đã dan díu với nhau. Hẳn người con gái ấy phải để lại trong anh nhiều nỗi cảm thương - Bởi vậy, dù mấy mươi năm qua, khi mái tóc trên đầu đã ngả bóng, nhà thơ vẫn bồi hồi nghĩ về những kỉ niệm xa xưa. Bài thơ được ra đời như thế! Lòng anh giữa trời sao mênh mông nỗi nhớ:
Lá tre rụng bao mùa, trôi dĩ vãng
Và quê em, đời sống có nâng cao?
Người năm ấy, em ơi! Giờ tóc trắng
Đang bồi hồi thao thiết giữa trăng sao.
Tác giả kể lại: Tối đó, người con gái ngồi bên anh trong ánh bếp lửa hồng. Tháng năm, bóng em vẫn còn soi mãi vào cuộc đời anh với tình quê đằm thắm:
Làng em luỹ tre xanh bất tử!
Mới gặp một đêm mà đã thấy thương thương
Bóng nhìn anh, mắt theo giờ còn biếc
Như phù sa cứ bồi mãi khôn cùng...
Phạm Ngọc Thái là một con người của quê hương bình dị, thân thương. Khi cuộc đời nhà thơ sau này đầy những đắng đót, xa xót... thì những kỷ niệm ngọt ngào xưa lại càng da diết trái tim anh. Lời thơ viết về hồi ức mà thật rung cảm, tưởng như có cả lệ chảy ở bên trong. Tình em quyện với tình quê hương máu thịt, tha thiết mà vô biên. Tất cả theo thời gian, như bóng câu bay qua để không bao giờ còn quay lại - nhưng vẫn còn đây, tấm tình thuỷ chung, in dấu trong thơ của thi nhân:
Người con gái sông xưa, ơi có biết!
Một thời trai bão táp cuộc hành quân...
Đêm thành phố nhớ em buồn da Hãy vứt ta lên chiếc giường diết
Em bây giờ, có hạnh phúc không em?
Bài thơ đầy ắp tính nhân văn.
BÙI VĂN DONG
Nguyên GV Trường ĐH Quốc gia
NR: 35 phố chợ Gia Lâm, Hà Nội
0 Comment: