Người Việt đầu tiên trên đất Hoa Kỳ- ST
Phố núi và bạn bè... Chút gì để nhớ!
Người Việt đầu tiên trên đất Hoa Kỳ
Khi Bùi Viện (một vị quan sống dưới triều vua Tự Đức) đặt chân đến Hoa Kỳ để đặt quan hệ ngoại giao vào đầu những năm 1870, lịch sử đã coi ông là người Việt Nam đầu tiên đặt chân lên đất nước châu Mỹ này
Nhưng trong cuốn sách “Con đường thiên lý” (NXB Văn hóa – Thông tin), nhà nghiên cứu Nguyễn Hiến Lê đã đưa ra những bằng chứng thuyết phục, chứng minh rằng trước Bùi Viện 20 năm, có một người Việt đã thực hiện một chuyến phiêu lưu ở miền Tây hoang dã của Hoa Kỳ như một cao bồi thực thụ.
Từ một người đi tìm vàng ở California, ông đã trở thành ký giả người Việt đầu tiên trên đất Mỹ. Ông là Trần Trọng Khiêm (người làng Xuân Lũng, phủ Lâm Thao, Phú Thọ).
Từ người Việt đầu tiên đến Hoa Kỳ và nhà báo Việt đầu tiên trên đất Mỹ
Trần Trọng Khiêm sinh năm Tân Tỵ (1821), tức năm Minh Mạng thứ 2, là con của một gia đình thế gia vọng tộc ở phủ Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ nhưng trong người lúc nào cũng sẵn máu phiêu lưu. Năm ông 21 tuổi, vợ ông bị một viên chánh tổng âm mưu làm nhục rồi giết hại. Sau khi giết tên chánh tổng báo thù cho vợ, ông xuống Phố Hiến (Hưng Yên), xin làm việc trong một tàu buôn ngoại quốc và bắt đầu bôn ba khắp năm châu bốn bể.
Suốt từ năm 1842 đến 1854, Trần Trọng Khiêm đã đi qua nhiều vùng đất, từ Hương Cảng đến Anh Cát Lợi, Hoà Lan, Pháp Lan Tây. Do trí tuệ sắc sảo, đến đâu ông cũng học được ngoại ngữ của các nước đó. Năm 1849, ông đặt chân đến thành phố New Orleans (Hoa Kỳ), bắt đầu chặng đường 4 năm phiêu bạt ở Mỹ cho đến khi tìm đường về cố hương.
Sau khi đến Mỹ, ông cải trang thành một người Trung Hoa tên là Lê Kim rồi gia nhập đoàn người đi tìm vàng ở miền Tây Hoa Kỳ. Sau đó ông trở về thành phố Xanh – Phát – Lan – Xích – Cố ( phiên âm của San Francisco) và làm kí giả cho tờ Daily News 2 năm. Cuộc phiêu lưu của Trần Trọng Khiêm (tức Lê Kim) trên đất Mỹ đã được nhiều tài liệu ghi lại.
Trong cuốn sách La Ruée Vers L’or của tác giả Rene Lefebre (NXB Dumas, Lyon, 1937) (1)có kể về con đường tìm vàng của Lê Kim và những người đa quốc tịch Gia Nã Đại, Anh, Pháp, Hòa Lan, Mễ Tây Cơ… Họ gặp nhau ở thành phố New Orleans thuộc tiểu bang Lousiana vào giữa thế kỷ 19 rồi cùng hợp thành một đoàn đi sang miền Viễn Tây tìm vàng.
Thời đó, “Wild West” (miền Tây hoang dã) là cụm từ người Mỹ dùng để chỉ bang California, nơi mà cuộc sống luôn bị rình rập bởi thú dữ, núi lửa và động đất. Trong gần 2 năm, Lê Kim đã sống cuộc đời của một cao bồi miền Tây thực thụ. Ông đã tham gia đoàn đào vàng do một người ưa mạo hiểm người Canada tên là Mark lập nên.
Chân dung Lê Kim
Để tham gia đoàn người này, tất cả các thành viên phải góp công của và tiền bạc. Lê Kim đã góp 200 Mỹ kim vào năm 1849 để mua lương thực và chuẩn bị lên đường. Đoàn có 60 người, nhưng Lê Kim đặc biệt được thủ lĩnh Mark yêu quý và tin tưởng. Do biết rất nhiều ngoại ngữ, ông được ủy nhiệm làm liên lạc viên cho thủ lĩnh Mark và thông ngôn các thứ tiếng trong đoàn, gồm tiếng Hòa Lan, tiếng Trung, tiếng Pháp. Ông cũng thường xuyên nói với mọi người rằng ông biết một thứ tiếng nữa là tiếng Việt Nam, nhưng không cần dùng đến. Lê Kim nói ông không phải gười Hoa, nhưng đất nước nằm ngay cạnh nước Tàu.
Ông và những người tìm vàng đã vượt sông Nebraska, qua núi Rocky, đi về Laramie, Salt Lake City, vừa đi vừa hát bài ca rất nổi tiếng thời đó là “Oh! Suzannah” (Oh! My Suzannah! Đừng khóc nữa em! Anh đi Cali đào vàng. Đợi anh hai năm, anh sẽ trở về. Mình cùng nhau cất ngôi nhà hạnh phúc...). Họ thường xuyên đối mặt với hiểm họa đói khát và sự tấn công của người da đỏ để đến California tìm vàng. Sốt rét và rắn độc đã cướp đi mất quá nửa số thành viên trong đoàn.
Bài hát Oh! Suzannah rất phổ biến ở miền Viễn tây Hoa kỳ ngày trước
Trong đoàn, Lê Kim nổi tiếng là người lịch thiệp, cư xử đàng hoàng,
tử tế nên rất được kính trọng. Nhưng đó đúng là một chuyến đi mạo hiểm,
khiến già nửa thành viên trong đoàn chết vì vất vả, đói khát và nguy
hiểm dọc đường đi.
Sau khi tích trữ được một chút vàng làm vốn liếng, Lê Kim quay trở lại San Francisco. Vào giữa thế kỷ 19, nơi đây còn là một thị trấn đầy bụi bặm, trộm cướp. Là người học rộng, hiểu nhiều, lại thông thạo nhiều ngoại ngữ, Lê Kim nhanh chóng xin được công việc chạy tin tự do cho nhiều tờ báo như tờ Alta California, Morning Post rồi làm biên tập cho tờ nhật báo Daily Evening.
Đề tài mà Lê Kim thường viết là về cuộc sống đầy hiểm họa và cay đắng của những người khai hoang ở bắc California và quanh khu vực San Francisco, trong đó ông hướng sự thương cảm sâu sắc đến những người da vàng mà thời đó vẫn là nạn nhân của sự phân biệt chủng tộc. Lê Kim cho rằng, các mỏ vàng đã khiến cuộc sống ở đây trở nên méo mó và sa đọa không gì cứu vãn được.
Lê Kim trong cuốn “Đổ xô đi tìm vàng”.
Nhiều bài báo của ông đăng trên tờ Daily Evening hiện vẫn còn lưu giữ ở thư viện Đại học California. Đặc biệt, trong số báo ra ngày 8/11/1853, có một bài báo đã kể chi tiết về cuộc gặp giữa Lê Kim và vị tướng Mỹ John A. Sutter. Tướng Sutter vốn trước là người có công khai phá thị trấn San Francisco. Khi Lê Kim mới đến đây, ông đã được tướng Sutter giúp đỡ rất nhiều. Sau khi bị lật đổ, Sutter đã bị tâm thần và sống lang thang ở khắp các bến tàu để xin ăn, bạn bè thân thiết đều không đoái hoài đến.
Khi tình cờ gặp lại, Lê Kim đã cho vị tướng bất hạnh 200 Mỹ kim. Ông đã chê trách thái độ hững hờ, ghẻ lạnh của người dân San Francisco và nước Mỹ với tướng Sutter, điều mà theo ông là đi ngược với đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc ông.
Sang năm 1854, khi đã quá mệt mỏi với cuộc sống hỗn loạn và nhiễu nhương ở Mỹ, cộng thêm nỗi nhớ quê hương ngày đêm thúc giục, Lê Kim đã tìm đường trở lại Việt Nam. Nhưng ông cũng đã kịp để lại nước Mỹ dấu ấn của mình, trở thành người Việt Nam đầu tiên cưỡi ngựa, bắn súng như một cao bồi và cũng là người Việt đầu tiên làm ký giả cho báo chí Mỹ.
Người Minh Hương cầm quân chống Pháp
Năm 1854, Trần Trọng Khiêm trở về Việt Nam vẫn dưới cái tên Lê Kim. Để tránh bị truy nã, ông không dám trở về quê nhà mà phải lấy thân phận là người Minh Hương đi khai hoang ở tỉnh Định Tường. Ông là người có công khai hoang, sáng lập ra làng Hòa An, phủ Tân Thành, tỉnh Định Tường. Tại đây, ông tục huyền với một người phụ nữ họ Phan và sinh được hai người con trai, đặt tên là Lê Xuân Lãm và Lê Xuân Lương. Trong di chúc để lại, ông dặn tất cả con cháu đời sau đều phải lấy tên đệm là Xuân để tưởng nhớ quê cũ ở làng Xuân Lũng.
Trong bức thư bằng chữ nôm gửi về cho người anh ruột Trần Mạnh Trí ở làng Xuân Lũng vào năm 1860, Lê Kim đã kể tường tận hành trình hơn 10 năm phiêu dạt của mình từ một con tàu ngoại quốc ở Phố Hiến đến những ngày tháng đầy khắc nghiệt ở Hoa Kỳ rồi trở về an cư lạc nghiệp ở Định Tường. Khi người anh nhắn lại: “gia đình bình yên và lúc này người đi xa đừng vội trở về”, Lê Kim đã phải tiếp tục chôn giấu gốc gác của mình ở miền Tây Nam Bộ.
Di tích làng Xuân Lũng – quê gốc Lê Kim
Nhưng chưa đầy 10 năm sau, khi làng xóm bắt đầu trù phú thì thực dân Pháp xâm lược nước ta. Lê Kim đã từ bỏ nhà cửa, ruộng đất, dùng toàn bộ tài sản của mình cùng với Võ Duy Dương mộ được mấy ngàn nghĩa binh phất cờ khởi nghĩa ở Đồng Tháp Mười. Tài bắn súng học được trong những năm tháng ở miền Tây Hoa Kỳ cùng với kinh nghiệm xây thành đắp lũy đã khiến ông trở thành một vị tướng giỏi. Năng khiếu ngoại ngữ cũng giúp Lê Kim cảm hóa được một nhóm lính Pháp và dùng chính nhóm lính này tấn công quân Pháp ở Cái Bè, Mỹ Qưới, khiến cho quân giặc điêu đứng.
Năm 1866, trong một đợt truy quét của Pháp do tướng De Lagrandière chỉ huy, quân khởi nghĩa thất thủ, Lê Kim đã tuẫn tiết chứ nhất quyết không chịu rơi vào tay giặc. Gia phả nhà họ Lê do hậu duệ của Lê Kim gìn giữ có ghi lại lời trăn trối của ông: “Trước khi chết, cụ dặn cụ bà lánh qua Rạch Giá gắng sức nuôi con, dặn chúng tôi giữ đạo trung hiếu, đừng trục lợi cầu vinh, đừng ham vàng bỏ ngãi. Nghĩa quân chôn cụ ngay dưới chân Giồng Tháp. Năm đó cụ chưa tròn ngũ tuần”. Trên mộ của Lê Kim ở Giồng Tháp (tỉnh Đồng Tháp) có khắc đôi câu đối:
“Lòng trời không tựa, tấm gương tiết nghĩa vì nước quyên sinh
Chính khí nêu cao, tinh thần Hùng Nhị (2)còn truyền hậu thế”.
Như vậy, không chỉ là người đầu tiên đặt chân lên đất Mỹ, Lê Kim còn là một trong những nhà yêu nước can đảm đứng lên chống thực dân Pháp xâm lược. Dù cuộc khởi nghĩa của ông cùng chung số phận với nhiều cuộc khởi nghĩa khác ở Nam Kỳ đều bị thực dân Pháp và triều đình Nguyễn đánh tan, nhưng Lê Kim vẫn được công nhận là một trong những danh nhân lớn ở Đồng Tháp thế kỷ 19
Ghi công ông, hiện ở quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh có con đường mang tên Trần Trọng Khiêm.
Cuộc đời sinh động và bi hùng của Trần Trọng Khiêm (tức Lê Kim) được hai nhà văn (một Pháp, một Việt) hư cấu nghệ thuật trong hai tiểu thuyết có nhan đề là: “La rueé vers l'or” (Đổ xô đi tìm vàng) của Rene Lefebre (nhà xuất bản Dumas, Lyon, 1937) và “Con đường thiên lý” của Nguyễn Hiến Lê (viết xong năm 1972, in năm 2001)
Khi Bùi Viện (một vị quan sống dưới triều vua Tự Đức) đặt chân đến Hoa Kỳ để đặt quan hệ ngoại giao vào đầu những năm 1870, lịch sử đã coi ông là người Việt Nam đầu tiên đặt chân lên đất nước châu Mỹ này
Nhưng trong cuốn sách “Con đường thiên lý” (NXB Văn hóa – Thông tin), nhà nghiên cứu Nguyễn Hiến Lê đã đưa ra những bằng chứng thuyết phục, chứng minh rằng trước Bùi Viện 20 năm, có một người Việt đã thực hiện một chuyến phiêu lưu ở miền Tây hoang dã của Hoa Kỳ như một cao bồi thực thụ.
Từ một người đi tìm vàng ở California, ông đã trở thành ký giả người Việt đầu tiên trên đất Mỹ. Ông là Trần Trọng Khiêm (người làng Xuân Lũng, phủ Lâm Thao, Phú Thọ).
Từ người Việt đầu tiên đến Hoa Kỳ và nhà báo Việt đầu tiên trên đất Mỹ
Trần Trọng Khiêm sinh năm Tân Tỵ (1821), tức năm Minh Mạng thứ 2, là con của một gia đình thế gia vọng tộc ở phủ Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ nhưng trong người lúc nào cũng sẵn máu phiêu lưu. Năm ông 21 tuổi, vợ ông bị một viên chánh tổng âm mưu làm nhục rồi giết hại. Sau khi giết tên chánh tổng báo thù cho vợ, ông xuống Phố Hiến (Hưng Yên), xin làm việc trong một tàu buôn ngoại quốc và bắt đầu bôn ba khắp năm châu bốn bể.
Suốt từ năm 1842 đến 1854, Trần Trọng Khiêm đã đi qua nhiều vùng đất, từ Hương Cảng đến Anh Cát Lợi, Hoà Lan, Pháp Lan Tây. Do trí tuệ sắc sảo, đến đâu ông cũng học được ngoại ngữ của các nước đó. Năm 1849, ông đặt chân đến thành phố New Orleans (Hoa Kỳ), bắt đầu chặng đường 4 năm phiêu bạt ở Mỹ cho đến khi tìm đường về cố hương.
Sau khi đến Mỹ, ông cải trang thành một người Trung Hoa tên là Lê Kim rồi gia nhập đoàn người đi tìm vàng ở miền Tây Hoa Kỳ. Sau đó ông trở về thành phố Xanh – Phát – Lan – Xích – Cố ( phiên âm của San Francisco) và làm kí giả cho tờ Daily News 2 năm. Cuộc phiêu lưu của Trần Trọng Khiêm (tức Lê Kim) trên đất Mỹ đã được nhiều tài liệu ghi lại.
Trong cuốn sách La Ruée Vers L’or của tác giả Rene Lefebre (NXB Dumas, Lyon, 1937) (1)có kể về con đường tìm vàng của Lê Kim và những người đa quốc tịch Gia Nã Đại, Anh, Pháp, Hòa Lan, Mễ Tây Cơ… Họ gặp nhau ở thành phố New Orleans thuộc tiểu bang Lousiana vào giữa thế kỷ 19 rồi cùng hợp thành một đoàn đi sang miền Viễn Tây tìm vàng.
Thời đó, “Wild West” (miền Tây hoang dã) là cụm từ người Mỹ dùng để chỉ bang California, nơi mà cuộc sống luôn bị rình rập bởi thú dữ, núi lửa và động đất. Trong gần 2 năm, Lê Kim đã sống cuộc đời của một cao bồi miền Tây thực thụ. Ông đã tham gia đoàn đào vàng do một người ưa mạo hiểm người Canada tên là Mark lập nên.
Chân dung Lê Kim
Để tham gia đoàn người này, tất cả các thành viên phải góp công của và tiền bạc. Lê Kim đã góp 200 Mỹ kim vào năm 1849 để mua lương thực và chuẩn bị lên đường. Đoàn có 60 người, nhưng Lê Kim đặc biệt được thủ lĩnh Mark yêu quý và tin tưởng. Do biết rất nhiều ngoại ngữ, ông được ủy nhiệm làm liên lạc viên cho thủ lĩnh Mark và thông ngôn các thứ tiếng trong đoàn, gồm tiếng Hòa Lan, tiếng Trung, tiếng Pháp. Ông cũng thường xuyên nói với mọi người rằng ông biết một thứ tiếng nữa là tiếng Việt Nam, nhưng không cần dùng đến. Lê Kim nói ông không phải gười Hoa, nhưng đất nước nằm ngay cạnh nước Tàu.
Ông và những người tìm vàng đã vượt sông Nebraska, qua núi Rocky, đi về Laramie, Salt Lake City, vừa đi vừa hát bài ca rất nổi tiếng thời đó là “Oh! Suzannah” (Oh! My Suzannah! Đừng khóc nữa em! Anh đi Cali đào vàng. Đợi anh hai năm, anh sẽ trở về. Mình cùng nhau cất ngôi nhà hạnh phúc...). Họ thường xuyên đối mặt với hiểm họa đói khát và sự tấn công của người da đỏ để đến California tìm vàng. Sốt rét và rắn độc đã cướp đi mất quá nửa số thành viên trong đoàn.
Bài hát Oh! Suzannah rất phổ biến ở miền Viễn tây Hoa kỳ ngày trước
Sau khi tích trữ được một chút vàng làm vốn liếng, Lê Kim quay trở lại San Francisco. Vào giữa thế kỷ 19, nơi đây còn là một thị trấn đầy bụi bặm, trộm cướp. Là người học rộng, hiểu nhiều, lại thông thạo nhiều ngoại ngữ, Lê Kim nhanh chóng xin được công việc chạy tin tự do cho nhiều tờ báo như tờ Alta California, Morning Post rồi làm biên tập cho tờ nhật báo Daily Evening.
Đề tài mà Lê Kim thường viết là về cuộc sống đầy hiểm họa và cay đắng của những người khai hoang ở bắc California và quanh khu vực San Francisco, trong đó ông hướng sự thương cảm sâu sắc đến những người da vàng mà thời đó vẫn là nạn nhân của sự phân biệt chủng tộc. Lê Kim cho rằng, các mỏ vàng đã khiến cuộc sống ở đây trở nên méo mó và sa đọa không gì cứu vãn được.
Lê Kim trong cuốn “Đổ xô đi tìm vàng”.
Nhiều bài báo của ông đăng trên tờ Daily Evening hiện vẫn còn lưu giữ ở thư viện Đại học California. Đặc biệt, trong số báo ra ngày 8/11/1853, có một bài báo đã kể chi tiết về cuộc gặp giữa Lê Kim và vị tướng Mỹ John A. Sutter. Tướng Sutter vốn trước là người có công khai phá thị trấn San Francisco. Khi Lê Kim mới đến đây, ông đã được tướng Sutter giúp đỡ rất nhiều. Sau khi bị lật đổ, Sutter đã bị tâm thần và sống lang thang ở khắp các bến tàu để xin ăn, bạn bè thân thiết đều không đoái hoài đến.
Khi tình cờ gặp lại, Lê Kim đã cho vị tướng bất hạnh 200 Mỹ kim. Ông đã chê trách thái độ hững hờ, ghẻ lạnh của người dân San Francisco và nước Mỹ với tướng Sutter, điều mà theo ông là đi ngược với đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc ông.
Sang năm 1854, khi đã quá mệt mỏi với cuộc sống hỗn loạn và nhiễu nhương ở Mỹ, cộng thêm nỗi nhớ quê hương ngày đêm thúc giục, Lê Kim đã tìm đường trở lại Việt Nam. Nhưng ông cũng đã kịp để lại nước Mỹ dấu ấn của mình, trở thành người Việt Nam đầu tiên cưỡi ngựa, bắn súng như một cao bồi và cũng là người Việt đầu tiên làm ký giả cho báo chí Mỹ.
Người Minh Hương cầm quân chống Pháp
Năm 1854, Trần Trọng Khiêm trở về Việt Nam vẫn dưới cái tên Lê Kim. Để tránh bị truy nã, ông không dám trở về quê nhà mà phải lấy thân phận là người Minh Hương đi khai hoang ở tỉnh Định Tường. Ông là người có công khai hoang, sáng lập ra làng Hòa An, phủ Tân Thành, tỉnh Định Tường. Tại đây, ông tục huyền với một người phụ nữ họ Phan và sinh được hai người con trai, đặt tên là Lê Xuân Lãm và Lê Xuân Lương. Trong di chúc để lại, ông dặn tất cả con cháu đời sau đều phải lấy tên đệm là Xuân để tưởng nhớ quê cũ ở làng Xuân Lũng.
Trong bức thư bằng chữ nôm gửi về cho người anh ruột Trần Mạnh Trí ở làng Xuân Lũng vào năm 1860, Lê Kim đã kể tường tận hành trình hơn 10 năm phiêu dạt của mình từ một con tàu ngoại quốc ở Phố Hiến đến những ngày tháng đầy khắc nghiệt ở Hoa Kỳ rồi trở về an cư lạc nghiệp ở Định Tường. Khi người anh nhắn lại: “gia đình bình yên và lúc này người đi xa đừng vội trở về”, Lê Kim đã phải tiếp tục chôn giấu gốc gác của mình ở miền Tây Nam Bộ.
Di tích làng Xuân Lũng – quê gốc Lê Kim
Nhưng chưa đầy 10 năm sau, khi làng xóm bắt đầu trù phú thì thực dân Pháp xâm lược nước ta. Lê Kim đã từ bỏ nhà cửa, ruộng đất, dùng toàn bộ tài sản của mình cùng với Võ Duy Dương mộ được mấy ngàn nghĩa binh phất cờ khởi nghĩa ở Đồng Tháp Mười. Tài bắn súng học được trong những năm tháng ở miền Tây Hoa Kỳ cùng với kinh nghiệm xây thành đắp lũy đã khiến ông trở thành một vị tướng giỏi. Năng khiếu ngoại ngữ cũng giúp Lê Kim cảm hóa được một nhóm lính Pháp và dùng chính nhóm lính này tấn công quân Pháp ở Cái Bè, Mỹ Qưới, khiến cho quân giặc điêu đứng.
Năm 1866, trong một đợt truy quét của Pháp do tướng De Lagrandière chỉ huy, quân khởi nghĩa thất thủ, Lê Kim đã tuẫn tiết chứ nhất quyết không chịu rơi vào tay giặc. Gia phả nhà họ Lê do hậu duệ của Lê Kim gìn giữ có ghi lại lời trăn trối của ông: “Trước khi chết, cụ dặn cụ bà lánh qua Rạch Giá gắng sức nuôi con, dặn chúng tôi giữ đạo trung hiếu, đừng trục lợi cầu vinh, đừng ham vàng bỏ ngãi. Nghĩa quân chôn cụ ngay dưới chân Giồng Tháp. Năm đó cụ chưa tròn ngũ tuần”. Trên mộ của Lê Kim ở Giồng Tháp (tỉnh Đồng Tháp) có khắc đôi câu đối:
“Lòng trời không tựa, tấm gương tiết nghĩa vì nước quyên sinh
Chính khí nêu cao, tinh thần Hùng Nhị (2)còn truyền hậu thế”.
Như vậy, không chỉ là người đầu tiên đặt chân lên đất Mỹ, Lê Kim còn là một trong những nhà yêu nước can đảm đứng lên chống thực dân Pháp xâm lược. Dù cuộc khởi nghĩa của ông cùng chung số phận với nhiều cuộc khởi nghĩa khác ở Nam Kỳ đều bị thực dân Pháp và triều đình Nguyễn đánh tan, nhưng Lê Kim vẫn được công nhận là một trong những danh nhân lớn ở Đồng Tháp thế kỷ 19
Ghi công ông, hiện ở quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh có con đường mang tên Trần Trọng Khiêm.
Cuộc đời sinh động và bi hùng của Trần Trọng Khiêm (tức Lê Kim) được hai nhà văn (một Pháp, một Việt) hư cấu nghệ thuật trong hai tiểu thuyết có nhan đề là: “La rueé vers l'or” (Đổ xô đi tìm vàng) của Rene Lefebre (nhà xuất bản Dumas, Lyon, 1937) và “Con đường thiên lý” của Nguyễn Hiến Lê (viết xong năm 1972, in năm 2001)
(TG: ? (3)- Dựa trên tư liệu của học giả Nguyễn Hiến Lê)- NPV sưu tầm từ internet
------------------------------------------
Chú thích:
1. Trong tiểu thuyết La rueé vers l'or ghi tên ông là Lee Kim.
2. Rất có thể là "(núi) Nùng (sông) Nhị", nhưng do chép sai hoặc lỗi lúc in ấn.
3. Bài này được tìm thấy đăng trên http://doanhnghiepodessa.com từ ngày 19.06.2009, một vài trang khác đăng lại đều không thấy ghi tác giả.
Tham khảo:
-Nguyễn Hiến Lê, “Con đường Thiên lý”. Nhà xuất bản Văn hóa-Thông tin, 2001.
-Nguyễn Q. Thắng-Nguyễn Bá Thế, “Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam”. Mục từ “Trần Trọng Khiêm”. Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1992.
-Bài viết về "Trần Trọng Khiêm" trên website Lịch sử Việt Nam (http://www.lichsuvietnam.vn/home.php?option=com_content&task=view&id=560&Itemid=34)
Đọc thêm: Người Việt đã tìm ra châu Mỹ?
GS.VS. Hoàng Trinh với ông Topatawa, đảo Hawaiii, năm 1994
Mỗi lần nhớ tới những chuyến công du nước ngoài, kỷ niệm đầu tiên luôn hiện lên trong ông là Hawaii, quần đảo nổi tiếng xinh đẹp của Mỹ, nằm ở Thái Bình Dương, với nỗi ám ảnh khôn nguôi về một phát hiện bất ngờ. Ông kể:
- Trong chuyến sang Mỹ năm 1994, tôi cùng mấy người bạn đi thuyền ra hòn Đảo Lớn (Big Island) có thủ phủ là Kona, trung tâm của quần đảo Hawaii. Từ Kona chúng tôi đến tham quan một vùng đất đỏ hẻo lánh có thổ dân sinh sống chủ yếu bằng nghề đánh cá, ngoài ra họ còn đẽo những thân gỗ to thành những chiếc thuyền độc mộc rất đẹp bán cho du khách.
Những chiếc thuyền trông rất giống thuyền ông bà ta từng làm. Không như các nhóm thổ dân da đỏ, cuộc sống thổ dân ở đây phân chia theo từng gia đình riêng rẽ và có nếp sinh hoạt giống cư dân châu Á. Nhiều tập quán, ngày lễ của họ trùng với các dân tộc phương Đông. Tôi đến thăm gia đình một thổ dân sinh sống lâu đời ở đó tên là Topatawa.
Ông đang cặm cụi đục thuyền độc mộc, có thân hình khỏe mạnh, chỉ đóng khố, lưng trần bóng nhẵn, nói tiếng Anh, tiếng Pháp rất trôi chảy. Tôi đến bắt tay ông, giới thiệu mình là người Việt Nam. Nghe hai tiếng Việt Nam, ông tỏ ra hết sức kinh ngạc, vui mừng xúc động gọi tôi là parent (bà con), parentage (dòng dõi tổ tiên)… Gương mặt và giọng nói của ông gợi trong tôi một xúc cảm thân thuộc và nỗi ám ảnh mơ hồ về một thời kỳ xa xưa của người Việt cổ.
- Thưa giáo sư, phải chăng ông muốn nói đến những thuyền nhân của tổ tiên ta đã từng vượt Thái Bình Dương sớm đến châu Mỹ?
- Đúng vậy. Lúc cùng nhau đi dọc bờ biển, ông Topatawa cho biết ngày xưa ông nội mình hay kể rằng tổ tiên bộ lạc này là người Việt Nam phiêu bạt sang đây từ gần mười thế kỷ trước. Nhiều thổ dân bộ lạc cũng còn ý thức về cội nguồn giống như Topatawa. Ông cũng kể về các phong tục, tập quán của bộ lạc mà tôi thấy có nhiều mối tương đồng với người Việt.
- Tuy nhiên, nếu chỉ căn cứ vào lời kể của một thổ dân thì khó chứng minh được rằng người Việt đã sớm đặt chân đến châu Mỹ. Điều này cần phải có thêm nhiều cứ liệu từ văn bản học, khảo cổ học, dân tộc học...
- Chính vì vậy mà tôi luôn ám ảnh, day dứt. Thời gian tôi ở lại bộ lạc này quá ít, không thể tìm hiểu kỹ được. Tôi cũng mới chỉ trao đổi sơ qua với vài nhà sử học, chứ chưa có dịp cùng họ nghiên cứu kỹ. Tuy vậy, tôi nghĩ đây là một giả thuyết hay, có cơ sở khoa học vì nước ta chỉ cách châu Mỹ qua Thái Bình Dương và từ thời xa xưa ông cha ta rất giỏi đi biển, đã chế tạo tàu bè để đánh cá kiếm sống và canh giữ hải phận, lẽ nào không có người giong buồm đi xa?
1. Trong tiểu thuyết La rueé vers l'or ghi tên ông là Lee Kim.
2. Rất có thể là "(núi) Nùng (sông) Nhị", nhưng do chép sai hoặc lỗi lúc in ấn.
3. Bài này được tìm thấy đăng trên http://doanhnghiepodessa.com từ ngày 19.06.2009, một vài trang khác đăng lại đều không thấy ghi tác giả.
Tham khảo:
-Nguyễn Hiến Lê, “Con đường Thiên lý”. Nhà xuất bản Văn hóa-Thông tin, 2001.
-Nguyễn Q. Thắng-Nguyễn Bá Thế, “Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam”. Mục từ “Trần Trọng Khiêm”. Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1992.
-Bài viết về "Trần Trọng Khiêm" trên website Lịch sử Việt Nam (http://www.lichsuvietnam.vn/home.php?option=com_content&task=view&id=560&Itemid=34)
Đọc thêm: Người Việt đã tìm ra châu Mỹ?
Nhà báo Phan Hoàng có ghi chép lại chuyện kể của Giáo sư viện sĩ Hoàng Trinh về nghi vấn có thể người Việt đã tìm ra châu Mỹ như sau:
GS.VS. Hoàng Trinh với ông Topatawa, đảo Hawaiii, năm 1994
Mỗi lần nhớ tới những chuyến công du nước ngoài, kỷ niệm đầu tiên luôn hiện lên trong ông là Hawaii, quần đảo nổi tiếng xinh đẹp của Mỹ, nằm ở Thái Bình Dương, với nỗi ám ảnh khôn nguôi về một phát hiện bất ngờ. Ông kể:
- Trong chuyến sang Mỹ năm 1994, tôi cùng mấy người bạn đi thuyền ra hòn Đảo Lớn (Big Island) có thủ phủ là Kona, trung tâm của quần đảo Hawaii. Từ Kona chúng tôi đến tham quan một vùng đất đỏ hẻo lánh có thổ dân sinh sống chủ yếu bằng nghề đánh cá, ngoài ra họ còn đẽo những thân gỗ to thành những chiếc thuyền độc mộc rất đẹp bán cho du khách.
Những chiếc thuyền trông rất giống thuyền ông bà ta từng làm. Không như các nhóm thổ dân da đỏ, cuộc sống thổ dân ở đây phân chia theo từng gia đình riêng rẽ và có nếp sinh hoạt giống cư dân châu Á. Nhiều tập quán, ngày lễ của họ trùng với các dân tộc phương Đông. Tôi đến thăm gia đình một thổ dân sinh sống lâu đời ở đó tên là Topatawa.
Ông đang cặm cụi đục thuyền độc mộc, có thân hình khỏe mạnh, chỉ đóng khố, lưng trần bóng nhẵn, nói tiếng Anh, tiếng Pháp rất trôi chảy. Tôi đến bắt tay ông, giới thiệu mình là người Việt Nam. Nghe hai tiếng Việt Nam, ông tỏ ra hết sức kinh ngạc, vui mừng xúc động gọi tôi là parent (bà con), parentage (dòng dõi tổ tiên)… Gương mặt và giọng nói của ông gợi trong tôi một xúc cảm thân thuộc và nỗi ám ảnh mơ hồ về một thời kỳ xa xưa của người Việt cổ.
- Thưa giáo sư, phải chăng ông muốn nói đến những thuyền nhân của tổ tiên ta đã từng vượt Thái Bình Dương sớm đến châu Mỹ?
- Đúng vậy. Lúc cùng nhau đi dọc bờ biển, ông Topatawa cho biết ngày xưa ông nội mình hay kể rằng tổ tiên bộ lạc này là người Việt Nam phiêu bạt sang đây từ gần mười thế kỷ trước. Nhiều thổ dân bộ lạc cũng còn ý thức về cội nguồn giống như Topatawa. Ông cũng kể về các phong tục, tập quán của bộ lạc mà tôi thấy có nhiều mối tương đồng với người Việt.
- Tuy nhiên, nếu chỉ căn cứ vào lời kể của một thổ dân thì khó chứng minh được rằng người Việt đã sớm đặt chân đến châu Mỹ. Điều này cần phải có thêm nhiều cứ liệu từ văn bản học, khảo cổ học, dân tộc học...
- Chính vì vậy mà tôi luôn ám ảnh, day dứt. Thời gian tôi ở lại bộ lạc này quá ít, không thể tìm hiểu kỹ được. Tôi cũng mới chỉ trao đổi sơ qua với vài nhà sử học, chứ chưa có dịp cùng họ nghiên cứu kỹ. Tuy vậy, tôi nghĩ đây là một giả thuyết hay, có cơ sở khoa học vì nước ta chỉ cách châu Mỹ qua Thái Bình Dương và từ thời xa xưa ông cha ta rất giỏi đi biển, đã chế tạo tàu bè để đánh cá kiếm sống và canh giữ hải phận, lẽ nào không có người giong buồm đi xa?
(PHAN HOÀNG- http://www.sggp.org.vn/t7xuan/nam2005/thang1/34310/ )
Hawaii thực ra thuộc về châu á , cũng giống như dảo guam vây , nên GSVS Hoàng Trinh lầm lẫn thuộc châu mỷ vì nghỉ rằng hawaii là tiểu bang cua nước Mỷ nên thuộc châu Mỷ . HAWAII trước dây là đảo quốc độc lập nằm tách biệt với châu Mỷ do Kha luan Bố tìm ra , vì ở giữa Thái Binh Duong gần với châu á nên có thể trước đây có một số ngư dân VN đi dánh cá xa bờ bị gió bảo nên trôi dạt về HAWAII đường trở về xa xôi vì vậy phải ở lại và trơ thành thổ dân của đảo hawaii - GSVS Hoàng Trinh có thể vì vậy mà suy nghỉ là có người VN tìm ra châu my là không hơp lý - theo nghiên cứu của các nhà khảo cổ thế giới đã từng ghi nhận người châu á tìm ra châu mỷ trước cả kha luan Bố hàng thế kỷ và đi theo con dường eo biển bering và dần xuống phía nam để đến nước mỷ ngày nay
ReplyDelete