Tại sao Quốc Ca VNCH lại là bài hát của một Đảng viên Cộng Sản?- ST sưu tầm
Phố núi và bạn bè... Chút gì để nhớ!
Tại sao Quốc ca VNCH lại là bài hát
của một Đảng viên Cộng Sản?
của một Đảng viên Cộng Sản?
Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước |
Đọc báo mạng, chúng ta thường bắt gặp một số phản hồi từ các độc giả trẻ
trong nước thắc mắc tại sao Việt Nam Cộng Hòa và các cộng đồng người
Việt Quốc gia hải ngoại lại lấy một bài hát của Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước,
một Đảng viên Cộng Sản, để làm bài Quốc ca ?
Để góp phần giải tỏa phần nào thắc mắc của các bạn trẻ trong nước, trước
hết, nên tìm về lai lịch khá đặc biệt của bài hát danh tiếng này.
Bối cảnh
Nửa đầu Thế kỉ 20, cả Đông Dương thuộc Pháp (Việt-Miên-Lào) chỉ có một
Đại học mang tên Đại Học Đông Dương (Université de L’Indochine) tại Hà
Nội. Hồi những năm 1940, có khoảng trên 800 sinh viên theo học ở đây,
bao gồm phân nửa là sinh viên Việt Nam, còn lại là các sinh viên Miên,
Lào, Pháp và có cả một ít sinh viên Tầu và vài nước Đông Nam Á nữa.
Thời đó, chỉ có con nhà khá giả mới có tiền học lên Đại học, nhất là
phải đi học xa nhà. Nói chung, hầu hết các sinh viên này chỉ lo “giật”
lấy mảnh bằng để sau này có địa vị, có tiền bạc theo nguyện vọng của cha
mẹ và gia đình họ.
Tuy nhiên, vẫn có một số sinh viên biết đặt dân tộc và đất nước lên trên
những lợi lộc vật chất và công danh, sự nghiệp bản thân. Do đã lĩnh hội
được tư tưởng khai phóng và tinh thần cách mạng Pháp, họ hiểu biết về
các quyền lợi căn bản của người dân, như các quyền bình đẳng, tự do ngôn
luận, tự do hội họp, tự do đi lại… và hiểu như thế nào là chế độ thực
dân, là áp bức bóc lột, là độc lập, tự do, dân chủ… cho nên họ đã đem
những kiến thức mới mẻ ấy để nâng nhiệt tình yêu nước của chính mình lên
một bước trưởng thành mới; sau đó, họ dùng báo chí, ca, kịch để khơi
dậy lòng ái quốc và thúc giục đồng bào đứng lên chống lại thực dân Pháp,
giành lại độc lập cho nước nhà.
Một điều khá lí thú là những sinh viên hoạt động văn hóa, văn nghệ hăng
say và đều đặn nhất trong thời điểm ấy là nhóm sinh viên từ Miền Nam ra
học tại Hà Nội, như Lưu Hữu Phước, Nguyễn Tôn Hoàn, Mai Văn Bộ, Huỳnh
Văn Tiểng, Trần Văn Khê, Phan Thanh Hòa, Đặng Ngọc Tốt, Nguyễn Thành
Nguyên, Nguyễn Tú Vinh, Nguyễn Văn Thiêm, Hồ Văn Huê, Nguyễn Mỹ Ca, Phan
Thị Bình, Nguyễn Thị Thiều…
Xuất sắc nhất trong số các sinh viên hoạt động văn nghệ thời đó là Sinh
viên Lưu Hữu Phước. Một mình Sinh viên Lưu Hữu Phước đã sáng tác ra
nhiều bài hát ái quốc vượt thời gian, như Tiếng Gọi Sinh Viên, Người Xưa
Đâu Tá, Bạch Đằng Giang (lời của Mai Văn Bộ), Ải Chi Lăng (lời của Mai Văn Bộ), Hội Nghị Diên Hồng, Hát Giang Trường Hận (Hồn Tử Sĩ), Xếp Bút Nghiên …
Đây là những bài hát có tính cách lịch sử, đã làm bừng sống dậy tình yêu quê hương đất nước.
Bài Sinh Viên Hành Khúc
Bài Sinh Viên Hành Khúc (La Marche des Étudiants) là bài hát có lịch sử
rất
đặc biệt. Bài được sáng tác năm 1939, nhạc của Lưu Hữu Phước, lời
tiếng Pháp của Lưu Hữu Phước và Mai Văn Bộ và được chọn là bài hát của
Câu Lạc Bộ Học Sinh Petrus Ký (chưa tìm thấy lời tiếng Pháp đầu tiên
này).
Từ khi ra đời, phần nhạc của bài hát không thay đổi, nhưng phần lời sẽ
lần lượt được sửa chữa bởi tác giả, bởi các bạn sinh viên và sau này còn
được sửa chữa coi như mới hẳn theo mục tiêu và chính kiến khác nhau của
các tập thể chọn lựa bài hát này. Bài hát cũng sẽ mang các tên khác
nhau: Sinh Viên Hành Khúc, Tiếng Gọi Sinh Viên, Thanh Niên Hành Khúc, Tiếng Gọi Thanh Niên, Quốc Dân Hành Khúc, Tiếng Gọi Công Dân.
Trước hết, theo Ts. Trần Quang Hải và Báo Chuông Việt thì Nhạc sĩ Lưu
Hữu Phước đã đặt lời tiếng Việt đầu tiên cho bài hát trước 1940, hồi còn
là học sinh ở Sài Gòn với câu mở đầu: “Này anh em ơi ! Chúng ta kết
đoàn hùng tráng. Đồng lòng cùng nhau, ta đi kiếm nguồn tươi sáng…“. Khi
ra học ở Đại Học Đông Dương, Hà Nội, khoảng 1940 – 1941, ông lại sửa
chữa đôi chút với lời mới như sau: “Nào anh em ơi ! Tiến lên đến ngày
giải phóng. Đồng lòng cùng nhau, ta đi sá gì thân sống… ” và đặt tên cho
bài hát là “Sanh Viên Hành Khúc” (Nguyễn Vĩnh Tráng. Lời mới cho bài
hát “Tiếng gọi thanh niên” dẫn theo DT Pho Rum của Đặc Trưng, năm 2000,
với tài liệu lấy ở “Âm Nhạc Việt Nam ” của Trần Quang Hải, 1989, và Báo
Chuông Việt 1966. Chimviet,free.fr.).
Từ chỗ ít người biết đến, bài hát đã được một nhóm sinh viên đem ra hát
công khai trong những buổi đi cắm trại hoặc đi viếng những địa danh lịch
sử. Và vì phần lời bằng tiếng Việt lúc đầu còn “thô kệch”, lại bị Sở
Mật Thám Pháp làm khó dễ do nội dung thôi thúc sinh viên đứng lên đấu
tranh giải phóng đất nước, cho nên các bạn sinh viên đã phải sửa lại lời
cho trôi chảy hơn cũng như phải “đấu tranh” với cơ quan kiểm duyệt để
bài hát trở thành hợp pháp, và sau đó được Tổng Hội Sinh Viên Đông Dương
(Association Générale des Étudiants Indochinois, viết tắt A.G.E.I.)
chọn làm bài hát chính thức với danh xưng là “Sinh Viên Hành Khúc” hay
“Tiếng Gọi Sinh Viện”, mở đầu bằng: “Nầy Sinh Viên ơi ! Đứng lên đáp lời
sông núi. Đồng lòng cùng đi, đi đi mở đường khai lối… “.
Việc các sinh viên thuộc Tổng Hội Sinh Viên phân công nhau soạn ra phần
lời mới cho bài Sinh Viên Hành Khúc được Gs. Nguyễn Ngọc Huy thuật lại
với khá nhiều chi tiết. Theo ông, chiều ngày 15 tháng 3 năm 1942, Tổng
Hội Sinh Viên tổ chức tại Đại Giảng Đường của Viện Đại Học một buổi ca
hát để lấy tiền giúp các bệnh nhân nghèo tại các bệnh viện được dùng làm
nơi thực tập cho các sinh viên Khoa Y Dược. Nhân dịp này, Tổng Hội Sinh
Viên muốn tung ra một bài hát đặc biệt để làm bài hát chính thức của
Tổng Hội. Trưởng Ban Âm Nhạc của Tổng Hội lúc đó là Sv. Nguyễn Tôn Hoàn
nhận thấy nhạc điệu bài La Marche des Étudiants của Sv. Lưu Hữu Phước
“có tánh cách khích động tinh thần tranh đấu hơn hết” nên đã chọn để làm
phần nhạc cho bài hát chính thức của Tổng Hội Sinh Viên, lấy tên là
Sinh Viên Hành Khúc và giao cho một Ủy ban soạn phần lời cho bản nhạc
này. Ủy Ban gồm có các Sinh viên Đặng Ngọc Tốt, Mai Văn Bộ, Huỳnh Văn
Tiểng, Nguyễn Thành Nguyên, Phan Thanh Hòa, Hoàng Xuân Nhị. (Gs. Nguyễn
Ngọc Huy. Quốc Kỳ và Quốc Ca Việt Nam. TTXVA. Xem thêm bài Ký Ức Về Lưu
Hữu Phước, Trần Văn Khê và Tổng hội Sinh viên Việt Nam của Ls. Lâm Lễ
Trinh. Vietnam Weekly News, Số 952, 27.7.2007).
Sinh viên Hành khúc
I.
Này sinh viên ơi! Đứng lên đáp lời sông núi!
Đồng lòng cùng đi, đi, mở đường khai lối
Vì non sông nước xưa, truyền muôn năm chớ quên,
Nào anh em Bắc Nam! Cùng nhau ta kết đoàn!
Hồn thanh xuân như gương trong sáng,
Đừng tiếc máu nóng, tài xin ráng!
Thời khó, thế khó, khó làm yếu ta,
Dầu muôn chông gai vững lòng chi sá
Đường mới kíp phóng mắt nhìn xa bốn phương,
Tung cánh hồn thiếu niên ai đó can trường
Điệp khúc:
Sinh viên ơi! Ta quyết đi đến cùng!
Sinh viên ơi! Ta thề đem hết lòng!
Tiến lên đồng tiến! Vẻ vang đời sống!
Chớ quên rằng ta là giống Lạc Hồng!
II.
Này sinh viên ơi! Dấu xưa vết còn chưa xoá!
Hùng cường trời Nam, ghi trên bảng vàng bia đá!
Lùa quân Chiêm nát tan, thành công Nam tiến luôn,
Bình bao phen Tống Nguyên, từng ca câu khải hoàn
Hồ Tây tranh phong oai son phấn,
Lừng tiếng Sát Thát Trần Quốc Tuấn
Mài kiếm cứu nước nhớ người núi Lam,
Trừ Thanh, Quang Trung giết hằng bao đám
Nòi giống có khí phách từ xưa chớ quên,
Mong đến ngày vẻ vang, ta thắp hương nguyền
(Điệp khúc)
III.
Này sinh viên ơi! Muốn đi đến ngày tươi sáng,
Hành trình còn xa, chúng ta phải cùng nhau gắng!
Ngày xưa ai biết đem tài cao cho núi sông,
Ngày nay ta cũng đem lòng son cho giống dòng
Là sinh viên vun cây văn hoá,
Từ trước sẵn có nhiều hoa lá
Đời mới kiến thiết đáp lòng những ai
Hằng mong ta ra vững cầm tay lái
Bền chí quyết cố gắng làm cho khắp nơi
Vang tiếng người nước Nam cho đến muôn đời!
(Điệp khúc)
Phần lời tiếng Việt chỉ thích hợp với các sinh viên Việt Nam, do đó, để
toàn thể sinh viên Đại học Đông Đương, gồm cả Pháp, Miên, Lào, có thể
hát chung một bài hát, Ủy ban soạn lời đã viết thêm phần lời bằng tiếng
Pháp và lấy lại tên cũ là La Marche des Étudiants.
La Marche des Étudiants
Étudiants! Du sol l’appel tenace
Pressant et fort, retentit dans l’espace.
Des côtes d’Annam aux ruines d’Angkor,
À travers les monts, du sud jusqu’au nord,
Une voix monte ravie:
Servir la chère Patrie!
Toujours sans reproche et sans peur
Pour rendre l’avenir meilleur.
La joie, la ferveur, la jeunesse
Sont pleines de fermes promesses.
Điệp khúc:
Te servir, chère Indochine,
Avec cœur et discipline,
C’est notre but, c’est notre loi
Et rien n’ébranle notre foi!
Sau buổi trình diễn ca nhạc chiều ngày 15.3.1942 thành công mĩ mãn, bài
Sinh Viên Hành Khúc được công nhận là bài hát chính thức của Tổng Hội
Sinh Viên Đại Học Đông Dương. Từ đó, các sinh viên trong Ban Âm Nhạc
tiếp tục phổ biến bài hát này cho công chúng Hà Thành trong những buổi
trình diễn tại Rạp Olympia, qua tiếng hát xuất sắc của hai Sinh viên
Phan Thị Bình và Nguyễn Thị Thiều. Hai sinh viên này cũng từ Miền Nam ra
Hà Nội học Ngành Nữ Hộ Sinh (École des Sage-femmes) tại Bệnh viện René
Robin.
Nhân ngày Giỗ Tổ Hùng Vương năm 1942, bài Sinh Viên Hành Khúc lại được
các sinh viên Đại Học Đông Dương ca lên hùng tráng ngay dưới chân núi
Nghĩa Lĩnh (Việt Trì, Tỉnh Phú Thọ), nơi tọa lạc Đền Hùng.
Sau Hà Nội, các sinh viên đã đưa bài Sinh Viên Hành Khúc trở lại Miền
Nam để trình diễn tại Nhà Hát Lớn Sài Gòn và được công chúng hoan nghênh
nhiệt liệt.
Sau buổi trình diễn ca nhạc tại Đại Giảng Đường Trường Đại học ngày
15.3.1942, mùa hè năm đó, Tổng Hội Sinh Viên lại tổ chức lễ mãn khóa cho
các sinh viên tốt nghiệp tại Nhà Hát Lớn Hà Nội, có Toàn Quyền Đông
Dương Decoux (Le Gouverneur Général de l’Indochine) và nhiều viên chức
người Pháp đến dự. Lễ khai mạc bắt đầu, tất cả mọi người đứng lên nghiêm
chỉnh, Ban Nhạc Hải Quân Pháp (Orchestre de la Marine) trổi Bài Quốc Ca
Pháp La Marseillaise. Tiếp ngay sau đó, ban nhạc cử Bài La Marche des
Étudiants. Nhạc tấu hùng tráng, lôi cuốn, hớp hồn, khiến Toàn Quyền Pháp
và toàn thể cử tọa vẫn đứng nghiêm như đang chào Quốc Kì của một Quốc
gia. Nghi lễ khai mạc trang trọng chấm dứt, chương trình văn nghệ mới
bắt đầu.
Bs. Nguyễn Lưu Viên, cựu sinh viên Đại Học Đông Dương, cũng kể về một
buổi lễ diễn ra tương tự vào ngày 03.3.1945, chỉ có 6 ngày trước khi
chính quyền thực dân Pháp ở Việt Nam bị quân đội Nhật đảo chính ngày
09.3.1945 (Bs. Nguyễn Lưu Viên. Những Kỷ Niệm Với Bài Quốc Ca Của VNCH.
Tập San Y Sĩ Tháng 4.2008).
Đến năm 1945, tổ chức Thanh Niên Tiền Phong ra đời ở Miền Nam, họ cũng
chọn bài này làm bài hát chính thức của tổ chức và đổi tên là Thanh Niên
Hành Khúc hay Tiếng Gọi Thanh Niên.
Khi bài hát mang tên Thanh Niên Hành Khúc thì thay 2 chữ “sinh viên” bằng 2 chữ “thanh niên” mà thôi.
Sau khi Vua Bảo Đại thoái vị, ngày 30.8.1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho đưa Cựu
Hoàng ra Hà Nội và phong cho ông chức cố vấn. Nhưng đến ngày 16.3.1946, Cựu Hoàng tháp tùng phái đoàn Nghiêm Kế Tổ đi du lịch Nam
Kinh, đi
Côn Minh rồi ở lại luôn Hong Kong. Năm 1947, Pháp bắt đầu muốn dùng con bài
Bảo Đại và nhiều buổi tiếp xúc, nhiều cuộc vận động chính trị diễn ra
bận rộn suốt năm 1947. Trong một cuộc hội nghị tại Hồng Kông do Cựu
hoàng Bảo Đại triệu tập, có sự tham dự của một số nhân sĩ và đại diện
các tôn giáo, các đảng phái, Bs. Nguyễn Tôn Hoàn đã đề nghị hội nghị lấy
bài Thanh Niên Hành Khúc của Ns. Lưu Hữu Phước làm bài Quốc Ca của Quốc
Gia Việt Nam và đổi tên thành Quốc Dân Hành Khúc hay Tiếng Gọi Công
Dân. Hội nghị chấp thuận. Do đó, khi Chính phủ Nguyễn Văn Xuân ra đời
tại Sài Gòn vào ngày 02.6.1948 thì bài Tiếng Gọi Công Dân nghiễm nhiên
trở thành bài Quốc Ca.
Đến thời Đệ Nhất Cộng Hòa, Quốc Hội Lập Hiến Việt Nam Cộng Hòa khai mạc
vào tháng 3 năm 1956, một trong những nhiệm vụ của Quốc Hội Lập Hiến là
chọn Quốc Kì và Quốc Ca. Một số nhạc sĩ đã tham dự cuộc thi tuyển Quốc
Ca, như Phạm Duy với bài Chào Mừng Việt Nam, Hùng Lân với 2 bài Nhân Dân
Cách Mạng Việt Nam và Việt Nam Minh Châu Trời Đông, Ngô Duy Linh với
bài Một Trời Sao, Ngọc Bích và Thanh Nam với bài Suy Tôn Ngô Tổng Thống
(nguồn: Quốc Ca VNCH ra đời như thế nào- Dactrung.com).
Mặc dù bài Minh Châu Trời Đông của Nhạc sĩ Hùng Lân được coi là sáng giá
hơn và đã từng được Quốc Dân Đảng dùng làm Đảng Ca từ năm 1945, nhưng
cuối cùng Quốc Hội Lập Hiến lại chọn bài Quốc Ca mà Chính phủ Nguyễn Văn
Xuân (và cả Chính phủ Nguyễn Văn Tâm) đã chọn trước đó, rồi ra lệnh cho
nhân viên Đài Phát Thanh Sài Gòn giữ nguyên phần nhạc, nhưng phải sửa
lại lời ca cho phù hợp với giai đoạn mới và vận hội mới của đất nước,
cũng lấy tên là Tiếng Gọi Công Dân.
Quốc ca Việt Nam Cộng hòa: Tiếng gọi công dân Này Công Dân ơi! Quốc gia đến ngày giải phóng
Đồng lòng cùng đi hy sinh tiếc gì thân sống.
Vì tương lai Quốc Dân, cùng xông pha khói tên,
Làm sao cho núi sông từ nay luôn vững bền.
Dù cho phơi thây trên gươm giáo,
Thù nước, lấy máu đào đem báo.
Nòi giống lúc biến phải cần giải nguy,
Người Công Dân luôn vững bền tâm trí.
Hùng tráng quyết chiến đấu làm cho khắp nơi
Vang tiếng người nước Nam cho đến muôn đời!
Công Dân ơi! Mau hiến thân dưới cờ!
Công Dân ơi! Mau làm cho cõi bờ
Thoát cơn tàn phá, vẻ vang nòi giống
Xứng danh nghìn năm giòng giống Lạc Hồng!
Đó là bài Quốc Ca của cả hai Nền Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Hòa.
Ngày 30.4.1975, Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ, người ta lấy lại tên cũ cũng
như phần lời của bài Tiếng Gọi Thanh Niên như thời Thanh Niên Tiền Phong
1945.
Tại sao Quốc Ca Việt Nam Cộng Hòa lại là một bài hát của Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước, một Đảng viên Cộng Sản?
Chẳng riêng gì giới trẻ ngày nay, mà cả những người dân Miền Bắc, nhất
là các Đảng viên Cộng Sản đều không thể hiểu nổi, tại sao Miền Nam
có thiếu gì nhạc sĩ, thiếu gì bài hát hay với đầy đủ ý nghĩa, mà
lại lấy ngay một bài hát của một Đảng viên Cộng sản là Lưu Hữu Phước để làm Quốc ca?
Chính Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước, từ năm 1949, đã viết thư kịch liệt phản đối
mạnh mẽ về việc này và sau đó, trong thời chiến tranh Nam Bắc, từ Hà
Nội, Ns. Lưu Hữu Phước từng lên Đài Tiếng nói Việt Nam (Hà Nội) liên tục
bác bỏ, giễu cợt và cả mắng nhiếc về việc bài hát Sinh Viên Hành Khúc
của ông “vẫn cứ bị người bên kia chiến tuyến sử dụng vào một mục đích
khác!”.
Thiển nghĩ, có thể luận giải vấn nạn này như sau (*):
Một:
Lí do đầu tiên khiến cho bài Sinh Viên Hành Khúc (Tiếng Gọi Sinh Viên,
Thanh Niên Hành Khúc, Tiếng Gọi Thanh Niên) của Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước
được Quốc Hội Lập Hiến VNCH chọn làm bài Quốc ca chính là vì giá trị nổi
bật của bài hát đó.
Những ai đã biết bài Quốc ca Pháp, La Marseillaise, sẽ thấy bài này mang
hơi hướng của bài Quốc Ca Pháp. Điều đó là tự nhiên, bởi vì, thời đó,
người Pháp đã ở nước ta xấp xỉ 80 năm, ảnh hưởng văn minh, văn hóa Pháp
phổ biến khắp nơi, nhất là đối với giới trẻ theo Tây học như Lưu Hữu
Phước và các bạn đồng trang lứa của ông. Bài La Marseillaise được coi là
mẫu mực của loại “Hành Khúc Âu Châu”, là bài hát đầu tiên trong thể
loại này ở Âu châu. Vì thế, cũng như bài La Marseillaise, nhạc điệu bài
Sinh Viên Hành Khúc sáng tác theo thể loại hành khúc mạnh mẽ, dồn dập;
còn lời thì réo gọi, thôi thúc, nhất là Điệp khúc uy lực như như một
quân lệnh thét gọi tiến lên, hiến thân diệt thù, cứu nước.
Hai:
Bất cứ tác phẩm văn nghệ hoặc công trình nghiên cứu nào đã công khai
xuất bản đều nhắm vào sự hưởng dụng của mọi người. Như thế, mặc nhiên
tác phẩm ấy thuộc về quần chúng và quần chúng có quyền xử dụng, miễn là
không tìm cách kinh doanh kiếm lợi một cách trái phép hoặc chủ ý đạo
văn, vi phạm tác quyền của tác giả.Từ đó suy luận, Quốc Hội Lập Hiến
VNCH chọn bài nhạc của Ns. Lưu Hữu Phước để làm Quốc ca có thể vì bài hát của ông đã được phổ cập rộng rãi và có sức ảnh hưởng lớn thúc giục lòng yêu nước, yêu đồng bào một cách vô
vị lợi.
Về luận giải này đã có 2 tiền lệ nổi tiếng, một tại Việt Nam, một tại Pháp:
Tiền lệ tại Việt Nam:
Tác giả Xuân Ba viết trên mạng kể về một kỉ niệm “hằn trong tâm trí”
với Nhạc sĩ Văn Cao vào năm 1991 như sau: “Cũng chợt nhớ lần hầu chuyện
trưa đó, khi chúng tôi gạn rằng, về nhạc và lời của Tiến Quân Ca (Quốc
ca của Cộng Sản VN) nếu giờ cho biên tập lại, nhạc sĩ sẽ thêm bớt ở đoạn
nào? Ông cười, lắc đầu: “Ngay trong cái đêm tình cờ lần đầu được nghe
Tiến Quân Ca trong một ngõ vắng, tôi có nhận ra được vài chỗ nhịp điệu
còn chưa hoàn chỉnh nhưng bài hát đã in ra rồi, bài hát đã phổ biến và không còn là của riêng tôi nữa…” (Xuân Ba. Sửa Lời Quốc Ca. tienphong.vn).
Tiền lệ tại Pháp:
Trong bài Quốc Kỳ và Quốc Ca Việt Nam, Gs. Nguyễn Ngọc Huy thuật lại
lai lịch bài La Marseillaise, tức là bài Quốc ca của nước Pháp. Tác giả
bài Quốc ca nước Pháp là viên sĩ quan bảo hoàng Rouget de Lisle. Ông
sáng tác bài này vào năm 1792 dưới thời Vua Louis XVI. Năm sau, 1793,
nhà vua bị Cách mạng Pháp xử tử và Rouget de Lisle cũng bị bắt vì tội
theo phe bảo hoàng và cũng đã bị lên án tử hình. May mắn có Ông Lazare
Carnot là Ủy viên Quốc phòng của Hội Đồng Cách Mạng muốn cứu mạng
Rouget, vì cả hai cùng xuất thân từ một binh chủng. Ông Lazarre đề nghị
Rouget tuyên thệ trung thành với Cách Mạng, nhưng Rouget cự tuyệt, thà
chết chứ dứt khoát không phủ nhận lí tưởng bảo hoàng của mình. Cuối cùng
Rouget de Lisle thoát chết chỉ vì Chính phủ Cách Mạng của tay đại khủng
bố Robespierre bị lật đổ trước khi bản án tử hình Rouget de Lisle kịp
thi hành. Sau năm 1793 ấy, Rouget de Lisle tiếp tục chống Cách Mạng,
nhưng chính quyền Cách Mạng Pháp vẫn dùng bài La Marseillaise của Rouget
de Lisle và đến năm 1795 thì chính thức quyết định lấy bài này làm bài
Quốc ca của nước Pháp.
Ba:
(...)
Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước sáng tác những bài ca ái quốc nêu trên khi ông còn là một
sinh viên yêu nước thuần túy, chưa theo Cộng sản.
Thật vậy, Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước sinh năm 1921. Năm 1940, sau khi đậu Tú
Tài tại Sài Gòn, ông ra Hà Nội học Đại học Đông Dương, ngành Y Dược. Vào
thời điểm đó, Lưu Hữu Phước là một sinh viên trẻ mới 19 tuổi, có tài
sáng tác các ca khúc, một thành viên trong nhóm sinh viên thuộc Đại Học
Đông Dương Hà Nội đầy nhiệt tình yêu nước và tích cực trong các sinh
hoạt văn hóa văn nghệ vào những năm đầu thập niên 1940.
Mãi mấy năm sau, khi Đảng Cộng Sản cướp được chính quyền, Lưu Hữu Phước và một nhóm
bạn sinh viên người Miền Nam khác mới gia nhập Đảng Cộng sản.
(...)
Ba luận giải trên đây cho thấy Quốc Hội Lập Hiến VNCH đã chọn bài Sinh
Viên Hành Khúc của Sinh viên Lưu Hữu Phước để làm bài Quốc ca vì đó là
một bài hát xuất sắc, đã được phổ biến rộng rãi, công khai và được dân
chúng từ Bắc tới Nam đón nhận nhiệt liệt vì bài hát phản ánh tình yêu
nước và ý chí chống giặc ngoại xâm của người dân Việt. Đó là một sự công nhận, tán thưởng dành
cho lớp thanh niên, sinh viên Việt Nam yêu nước mà Nhạc sĩ
Lưu Hữu Phước là đại diện thời ấy, thời mà Việt Minh Cộng Sản chưa cướp
được chính quyền từ tay Nhật và Chính phủ Trần Trọng Kim ngày 19.8.1945.
TG:Bạch Diện thư sinh, nguồn internet- ST sưu tầm
(*): Từ đây đến hết bài ST có biên tập lại và lược bỏ một số đoạn. Rất mong nhận được sự thông cảm và lượng thứ của tác giả cũng như Quý bạn đọc.
(*): Từ đây đến hết bài ST có biên tập lại và lược bỏ một số đoạn. Rất mong nhận được sự thông cảm và lượng thứ của tác giả cũng như Quý bạn đọc.
0 Comment: